Trang

Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Nông dân trồng nấm chữa bệnh người nghèo

Chỉ học hết lớp 9, lại hay bị ốm đau, anh Phong ở huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi) học cách trồng nấm linh chi nâng cao sức khỏe bản thân và đang ấp ủ ước mơ trồng nấm giúp người nghèo chữa bệnh.

Sau nhiều lần lặn lội ra Trung tâm Nghiên cứu phát triển nấm ở Hà Nội học hỏi, anh Lê Giang Phong (36 tuổi, xã Đức Nhuận, huyện Mộ Đức) đã trở thành nông dân đầu tiên ở Quảng Ngãi trồng thành công nấm linh chi. Không chỉ trồng nấm chữa bệnh thiếu máu cơ tim và gan nhiễm mỡ cho mình, anh Phong còn cùng 11 nông dân khác thành lập Hợp tác xã nấm đầu tiên của tỉnh.

Hợp tác xã nấm Đức Nhuận do anh Phong làm Chủ nhiệm không ngừng mở rộng diện tích, tạo việc làm cho nhiều lao động nông nhàn tại địa phương. Tin tưởng mô hình trồng nấm của anh Phong, năm 2011, Sở Khoa học - Công nghệ Quảng Ngãi đã tài trợ dự án sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu với lô thiết bị trị giá 1,1 tỷ đồng cho Hợp tác xã nấm Đức Nhuận. Dây chuyền thiết bị sản xuất nấm có đầy đủ hệ thống trộn bột cưa, lò hơi hấp, sấy nấm, tủ bảo ôn bảo quản giống... có thể đạt năng suất thiết kế 5 tấn nguyên liệu để sản xuất 5.000 phôi nấm mỗi ngày.

Sau khi cấy giống, khoảng 3,5 tháng là có thể bắt đầu thu hoạch nấm linh chi. Hiện, anh Phong đã trồng và bán được khoảng 300 kg nấm linh chi cho người dân miền Trung với giá rẻ.

Ông Phạm Ngọc Lân, Phó chủ tịch UBND huyện Mộ Đức nhấn mạnh, đây là hướng mở tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương. Thời gian tới, huyện sẽ làm việc với Sở Khoa học và Công nghệ để xem xét về khả năng hoạt động hiệu quả của thiết bị máy móc sản xuất nấm. Sau đó sẽ bố trí đất cho hợp tác xã nấm mở rộng thêm diện tích hoặc đưa vào khu công nghiệp của huyện để sản xuất.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, chất germanium trong nấm linh chi ngăn chặn bệnh ung thư, làm sản sinh phong phú các loại vitamin, khoáng, đạm cho cơ thể. Linh chi thúc đẩy hệ tiêu hóa, chống bệnh béo phì, ổn định huyết áp. Lọc sạch máu, tăng cường tuần hoàn máu, giảm mệt mỏi, hỗ trợ thần kinh. Chống đau đầu và tứ chi, giải độc gan, hiệu quả rất tốt đối với bệnh về gan mật như viêm gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ...

Không chỉ sản xuất ở hợp tác xã, anh Phong còn liên tục về các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Bình Sơn, Sơn Tịnh, Mộ Đức để hướng dẫn kỹ thuật trồng nấm linh chi, nấm sò, nấm rơm cho nông dân. Trong ba năm, anh đã "cầm tay chỉ việc" cho hàng trăm lượt nông dân trồng nấm, cải thiện thu nhập trên địa bàn tỉnh. Hiện tại, anh cùng các thành viên trong Hợp tác xã nấm ấp ủ ước mơ mở rộng diện tích trồng nấm linh chi để chế biến thành trà linh chi với giá thấp.

Thành giám đốc từ 50 con gà

Không chỉ người dân Hải Phòng mà người nuôi gà ở 3 miền Bắc, Trung, Nam đều biết tiếng tăm của Công ty CP Giống gia cầm Lượng Huệ. Để có thành công đó, vợ chồng anh Lượng đã trải qua bao gian nan với những sự cố thót tim...

Với vẻ chân chất đậm chất ND, Giám đốc Công ty CP Giống gia cầm Lượng Huệ - Phạm Văn Lượng (thôn Hoàng Lâu, xã Hồng Phong, huyện An Dương, TP.Hải Phòng chia sẻ với chúng tôi: “Năm 1990, tôi rời quân ngũ về quê hương xã Hồng Phong. Bà con nơi đây vốn gắn bó với củ khoai, cây lúa, nên cuộc sống rất khó khăn. Tôi muốn thay đổi diện mạo vùng quê nghèo”.

Khởi nghiệp từ 50 con gà

Nghĩ là làm. Anh không quản ngại đường sá xa xôi, đi một số tỉnh để học hỏi các mô hình hay. Sau một thời gian tìm hiểu, anh đã chọn hướng chăn nuôi. Anh mua thử 50 gà giống về nuôi. Sau hơn 1 năm, số lượng đàn gà của anh tăng gấp 10 lần.


Tuy nhiên, khó khăn nhất vẫn là thị trường tiêu thụ. Vợ chồng anh phải chở gà vào trung tâm thành phố bán. Do người tiêu dùng chưa quen với giống gà công nghiệp nên vợ chồng anh phải bán rẻ hơn 1/3, thậm chí bằng một nửa giá gà ta.

Khi đã có thị trường, anh cải tiến thức ăn để chất lượng thịt gà không thua kém gà ta. Đến nay, sản phẩm từ trứng, gà thịt của trang trại anh đã có mặt ở các nhà hàng, khách sạn, các hệ thống siêu thị lớn như BigC, Intimex… trên địa bàn. Còn gà giống 1-7 ngày tuổi không chỉ cung cấp cho các tỉnh trong cả nước mà còn xuất sang nước bạn Campuchia.

Lượng gà nhiều, anh xây nhà máy sản xuất thức ăn cung cấp cho gà. Anh bảo, việc có nguồn thức ăn tại chỗ vừa tiết kiệm chi phí, vừa kiểm soát được độc tố có trong nguyên liệu và giải quyết thêm nguồn lao động cho địa phương.

Giám đốc của nông dân

Sự nghiệp làm giàu của anh Lượng cũng trải qua nhiều phen sóng gió. Như năm 1995, giá sản phẩm bán ra dưới giá thành sản xuất, nhiều đơn vị phải bỏ cuộc. Để duy trì được đàn gà, anh phải vay mượn anh em, bạn bè, thậm chí phải bán cả nhà để có tiền mua thức ăn cho gà. Sau 4 tháng, giá gà tăng, trang trại lại bắt đầu có lãi.

Công ty của anh Lượng tạo việc làm cho khoảng 100 lao động và 30 lao động thời vụ với thu nhập bình quân 3 triệu đồng/tháng, có lao động thu tới 6-7 triệu đồng/tháng.
Nhưng không may cho anh, đầu năm 1996, anh vừa nhập 2.000 gà giống siêu thịt từ Pháp về, một công nhân do sơ suất đã làm cháy phân xưởng, thiêu rụi luôn cả số gà giống trên. Thiệt hại tới hàng trăm triệu đồng.

Ổn định sản xuất được vài năm, đại dịch cúm gia cầm cũng khiến anh phải thót tim. Anh Lượng cho biết: Năm 2005, xã anh bùng phát dịch cúm gia cầm và trang trại của anh cũng nằm trong phạm vi phải tiêu hủy. Lúc ấy, trại có khoảng 2 vạn gà đẻ trứng, trị giá gần chục tỷ đồng mà vẫn khỏe, đẻ bình thường nên cán bộ thú y đã đề xuất với địa phương không tiêu hủy gà mà phối hợp với cơ sở áp dụng triệt để các biện pháp phòng dịch xung quanh khu vực trại. Sau hơn 1 tháng Hải Phòng công bố hết dịch, đàn gà của anh được phép bán ra thị trường.

Không chỉ tạo việc làm cho lao động địa phương, anh Lượng còn liên kết với ND một số địa bàn lân cận như huyện An Lão, Kiến Thụy, Thủy Nguyên... nuôi gà. Tại các trại liên kết này, anh hỗ trợ về giống, thức ăn và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho hàng chục hộ. Từ năm 2008 đến nay, anh giúp khoảng 300 hộ xây dựng mô hình nuôi gà. Trong số này, nhiều hộ đã trở nên giàu có.

Bà con có nhu cầu tìm hiểu thêm về mô hình nuôi gà liên hệ với anh Lượng theo số điện thoại: 0913.570223.

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Khoai lang cao sản cho vùng lũ

LTS: Sau bão lũ, nên trồng cây gì trên dải đất khô cằn miền Trung? NNVN xin giới thiệu bài viết của TS Vũ Văn Định, Viện Nghiên cứu & phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây (Trường ĐH Thành Tây) tư vấn về trồng khoai lang siêu cao sản, loại cây của người nghèo rất thích hợp trồng ở vùng đất miền Trung, cho hiệu quả kinh tế cao.

Khoai lang là cây có củ có lịch sử trên 400 năm ở nước ta, nhưng do năng suất và hiệu quả quá thấp nên SX suy giảm nghiêm trọng. Năm 2012, diện tích khoai lang cả nước chỉ còn 140.000 ha, sản lượng 1,42 triệu tấn, năng suất củ tươi 10 tấn/ha/vụ, doanh thu khoảng 15 triệu đ/ha/vụ.

Với tiến bộ đột phá về giống mới, khoai lang đã trở thành một cây có giá trị kinh tế rất cao. Có giống khoai lang là thực phẩm ăn ngon, bổ dưỡng sức khỏe. Có giống khoai lang giàu tinh bột là nguyên liệu giá thấp để SX ethanol sinh học thay thế một phần xăng hóa thạch.

Viện Nghiên cứu & phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây (Trường ĐH Thành Tây) được Bộ NN-PTNT giao nhiệm vụ nghiên cứu chọn tạo giống khoai lang siêu cao sản. Vừa qua đã có 2 giống khoai lang được Bộ công nhận. Trong đó HNV1 là giống siêu cao sản giàu tinh bột, năng suất củ tươi đạt 50 tấn/ha/vụ, hàm lượng tinh bột đạt 25,6%, hàm lượng chất khô đạt 32,12% (tương đương sắn). Nếu thâm canh cao có thể đạt 100 tấn/ha/vụ, tiềm năng năng suất lý thuyết là 200 tấn/ha/vụ.

Nếu dùng khoai lang để SX ethanol với năng suất 50 tấn/ha/vụ thì mỗi vụ làm xấp xỉ 10 tấn ethanol/ha. Nếu 1 năm làm 2 vụ thì có thể SX được 20 tấn ethanol/ha, cao hơn hẳn hiệu suất SX ethanol lấy nguyên liệu từ các cây chất bột khác.

Khoai lang là cây dễ trồng, chăm sóc đơn giản, thích ứng rộng, đầu từ thấp, chỉ khoảng 15 triệu đ/ha/vụ, với năng suất 50 tấn/ha/vụ, doanh thu đạt 75 triệu đ/ha/vụ, sau khi trừ chi phí, nông dân còn có thể thu lời 60 triệu đ/ha/vụ.

Nếu làm 1 năm 2 vụ (1 vụ luân canh cây khác) thì mỗi héc ta nông dân thu lời từ khoai lang đạt 120 triệu đ/năm. Sơ chế và bảo quản khoai lang khô rất đơn giản, vận chuyển thuận tiện, nguồn giống mới có thể nhân nhanh.

Từ đó khoai lang được coi là một cây có hiệu quả kinh tế, xã hội rất cao, hơn hẳn cây sắn và nhiều cây trồng khác, nhất là ở vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão lũ ở miền Trung.

Thị trường tiêu thụ khoai lang tinh bột rất khả quan. Chính phủ đã phê duyệt SX xăng E5 tức là có thể sử dụng ethanol sinh học thay thế 5% xăng hóa thạch được bán ra thị trường từ năm 2015.

Hiện cả nước đã có 5 NMSX ethanol đang hoạt động, tổng công suất 436.000 tấn ethanol/năm, cần khoảng 3 triệu tấn khoai lang củ tươi, tương đương khoảng 60.000 ha khoai lang siêu cao sản. Nếu các tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình và một số tỉnh miền Trung khác, mỗi tỉnh trồng khoảng 10.000 ha SX khoai khô sẽ đủ nguyên liệu cung cấp cho 5 NM ethanol hiện có, đem lại lợi ích lớn cho cả nông dân và cho cả NM.

Nhu cầu ethanol sinh học trong thị trường nội địa còn tăng nhiều và có thị trường XK rất lớn, nghĩa là trồng khoai lang sẽ có đầu ra ổn định lâu dài, hiệu quả cao; đem lại thu nhập đáng kể cho nông dân nhiều vùng, xứng đáng là một cây công nghiệp có vị thế quan trọng trong nền nông nghiệp nước nhà.


(*): Tác giả hiện đang là Chủ nhiệm Đề tài Nghiên cứu chọn tạo giống khoai lang cao sản phục vụ chế biến

Đưa hươu về vùng chiêm trũng

Ông Đỗ Việt Hùng (xóm 1, xã Khánh Thành, huyện Yên Khánh, Ninh Bình) không chỉ là người đầu tiên mang hươu về vùng đất chiêm trũng này nuôi mà còn giúp nhiều hộ trong xã thoát khỏi đói nghèo. 

Chúng tôi đến thăm nhà ông Hùng đúng lúc ông đang cho hươu ăn. Ngơi tay, ông Hùng bảo: “Sau nhiều năm nuôi hươu, tôi thấy mình đã đi đúng hướng, chọn đúng nghề”.

Trước khi biết đến con hươu, ông Hùng đã có hơn 10 năm nuôi lợn, vịt nhưng không thành công. Đang lúc trăn trở tìm hướng đi mới, một lần tình cờ lên nhà người bạn ở thị xã Tam Điệp chơi, ông được bạn giới thiệu về nuôi hươu. “Thấy dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao, quê nhà chưa ai nuôi nên tôi thích ngay và nhờ bạn tư vấn kỹ thuật” - ông Hùng tâm sự.

Về nhà, ông bàn với vợ xây chuồng trại, rồi lên nhà bạn mua 3 con hươu giống (1 đực, 2 cái) về nuôi. “Ngay năm đầu tôi đã thành công. Riêng tiền bán nhung tôi đã thu hồi đủ số vốn bỏ ra. Ngoài ra tôi còn lãi 2 con hươu con”- ông Hùng khoe.

Đến nay nhà ông đã có đàn hươu 13 con, 3 hươu đực và 10 hươu cái. Mỗi hươu đực một năm cho cắt nhung 2 lần được khoảng 1,5kg, tổng cộng mỗi năm ông thu về gần 100 triệu đồng từ nhung hươu. Còn bán hươu giống, mỗi năm ông cũng thu khoảng 100 triệu đồng. Không chỉ làm giàu cho riêng mình, ông Hùng còn hướng dẫn cách nuôi, cung cấp giống cho các hộ nghèo trong xã. Nhờ nuôi hươu, nhiều gia đình đã thoát nghèo, có của ăn của để.

Hỏi về kinh nghiệm nuôi hươu, ông Hùng cho biết: Hươu là vật dễ nuôi. Chỉ cần chú ý xây dựng chuồng trại kín gió vào mùa đông và thoáng mát vào mùa hè là được. Về giống, cần chọn giống tốt có bố mẹ to khỏe. Đáp ứng được những yêu cầu này chắc chắn nuôi hươu sẽ thành công.

Bà con có nhu cầu mua hươu giống, tư vấn kỹ thuật nuôi liên hệ với ông Đỗ Việt Hùng qua số điện thoại: 0977.980.110.

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Kiếm tiền nhờ kinh doanh tỏi đen

Anh Cao Quốc Vinh ở TP HCM dốc vốn liếng làm ra tỏi đen bán với giá hàng triệu đồng mỗi kg dù sản phẩm này mới mẻ với người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu còn hạn chế.

Trong chuyến du lịch sang Hàn Quốc vào năm 2009, anh Cao Quốc Vinh nhận thấy tỏi đen gắn liền với cuộc sống người dân nơi đây. Hầu như nhà nào cũng tích trữ làm phương thuốc phòng ngừa cảm cúm, và uống cùng với trà… Ý tưởng đưa tỏi Việt Nam sang tiêu thụ tại Hàn Quốc bắt đầu từ đó. Anh tìm hiểu phương thức chế biến, mang công nghệ sản xuất về thực hiện ước mơ tiên phong trong lĩnh vực kinh doanh này tại Việt Nam.

“Tôi mất khoảng 2 năm mày mò trên sách vở, lên mạng tìm kiếm thông tin, thực hiện nhiều chuyến khảo sát trong và ngoài nước vì lúc đó trên thị trường chưa có công ty nào nghiên cứu về loại tỏi này”, anh nhớ lại quyết định táo bạo và mạo hiểm nhất trong sự nghiệp kinh doanh của mình.

Sau nhiều nỗ lực, tới năm 2011, anh thành lập công ty chuyên cung ứng tỏi đen đầu tiên tại Việt Nam, dùng công nghệ Nhật.

Quá trình cho ra thành phẩm phải kỹ lưỡng từng công đoạn, để đáp ứng những yêu cầu khó tính nhất, đặc biệt là người dân Hàn Quốc vốn rất sành về tỏi đen. Nguyên liệu ban đầu là tỏi trắng aomori lấy từ xứ trồng tỏi Phan Rang. Sau đó, tỏi được lên men trong suốt 60 ngày và phải duy trì liên tục độ ẩm từ 85 đến 95%, nhiệt độ 65-85 độ C. Trong thời gian này, kỹ thuật viên giám sát thường xuyên để lấy mẫu tỏi kiểm định chất lượng.

Trong một tháng đó, tỏi đạt được độ ngọt, mềm, dẻo cần thiết và ngả sang màu đen. Kế đến, tỏi đen được đặt trên giá đỡ chuyên dụng để làm mát và khô khoảng một tuần. Công đoạn cuối cùng là sắp xếp và đóng gói bằng tay.

Tại thị trường trong nước, do chưa phổ cập cũng như mức giá khá cao (khoảng 1,7 triệu đồng một kg), vì vậy người tiêu dùng Việt ít biết đến và chưa tiếp cận nhiều với sản phẩm này.

Anh kể, khi chào những mẻ tỏi đen đầu tiên ra thị trường gần như chẳng ai quan tâm, nhiều người không muốn dùng thử và chê giá đắt. Tuy nhiên, sau đó anh Vinh và cộng sự áp dụng cách thức “mưa dầm thấm lâu”, bằng cách nhờ người quen, bạn bè, các đại lý chuyển giúp tài liệu giới thiệu sản phẩm tới khách hàng và những ai quan tâm.

Bên cạnh đó, công ty còn trực tiếp giới thiệu thông tin sản phẩm ở các câu lạc bộ hội doanh nghiệp, lập website và giới thiệu sản phẩm trên các mạng xã hội. Kết quả, sau gần một năm tiếp thị ròng rã, dần dần nhiều người biết đến thương hiệu này và đặt hàng nhiều hơn, nhưng vẫn còn khiêm tốn. "Khách hàng nội địa hiện chủ yếu là người có thu nhập cao hoặc am hiểu công dụng của tỏi đen", anh Vinh chia sẻ.

Ngày đầu khởi nghiệp, anh Vinh chỉ có 2 kỹ thuật viên để trông coi quy trình sản xuất. Nhưng đến nay, quy mô hoạt động mở rộng với hơn 20 nhân viên, xưởng được đặt tại Long Thành.

Kể từ lúc bắt tay vào kinh doanh tới nay, anh Vinh tự chủ động nguồn vốn, không nhờ vào các nhà đầu tư bên ngoài vì bản thân anh có nguồn thu từ công việc khác nên có thể tự xoay xở và chỉ mượn một ít từ bạn bè, người thân. Anh cho hay đầu tư một dàn máy có công suất khoảng một tấn thì cần 80.000 USD và phía Nhật hướng dẫn cách sử dụng, chạy mẫu sản phẩm thử.

“Cách đây hơn một năm, tôi từng rơi vào tình trạng chán nản vì không biết đầu ra sản phẩm như thế nào và thị trường này vẫn là một ẩn số, nhưng trót đam mê củ tỏi nên cứ dấn thân làm hết sức thôi. Nhiều người còn nói tôi không bình thường...”, anh chia sẻ. Tuy nhiên, giờ đây mọi thứ có tín hiệu tốt hơn khi việc cung cấp sản phẩm cho các đại lý không chỉ ở TP HCM mà còn tại khu vực Hà Nội, Cần Thơ, Ninh Thuận..., mang lại thu nhập ổn định cho công ty và nuôi sống hàng chục nhân viên.

Công ty có thể cung ứng 3.000 kg tỏi đen thành phẩm mỗi tháng, với giá chào bán ở thị trường Nhật là 5 triệu đồng một kg, Hàn Quốc khoảng 3 triệu đồng mỗi kg. Hiện anh vừa ký đơn hàng xuất khẩu tới 500 kg tỏi thành phẩm xuất sang Nhật, con số cao nhất từ trước đến nay.

Tỏi đen được sử dụng nhiều ở châu Á, chủ yếu là thị trường Nhật, Hàn Quốc có các lợi ích như chống đầy hơi, tiêu diệt tế bào ung thư, hạ huyết áp, phòng ngừa trụy tim mạch, giảm mỡ máu. Khi ăn trực tiếp tỏi đen không bị hôi miệng hay ợ như tỏi trắng thông thường.

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Biện pháp hạn chế thiệt hại cho các vùng ương nuôi cá mùa lũ

Năm nay, lũ về sớm hơn so với mọi năm nên chỉ đầu tháng 7 mà dòng nước sông Tiền, sông Hậu đã đỏ ngầu màu của phù sa. Thêm vào đó, con nước ở những địa phương đầu nguồn vùng biên giới Tây Nam Việt Nam – Campuchia từ An Giang sang Đồng Tháp cũng đã “vượt bờ” hơn nửa tháng nay. Đây là tin vui đối với bà con sống bằng nghề chài, lưới, sản xuất ngư cụ, …, nhưng đối với người nuôi trồng thủy sản thì điều này lại tiềm ẩn nhiểu rủi ro.

Theo ông Phan Hữu Hội, Chi cục phó Chi cục Thủy sản Tiền Giang, nước lũ tràn về sẽ gây nhiều thiệt hại cho bà con nuôi cá trong vùng lũ, bởi nước lũ từ thượng nguồn sẽ cuốn trôi phèn, vật chất hữu cơ phân hủy, độc tố thuốc bảo vệ thực vật hòa vào dòng nước của các con sông, kênh rạch (nước cỏ, nước son) nên nước lũ tràn về sẽ làm thay đổi đột ngột điều kiện môi trường (pH giảm, độ trong thấp), thậm chí ô nhiễm môi trường nước, từ đó có thể gây ảnh hưởng trực tiếp lên cá nuôi bè, hay gây ảnh hưởng gián tiếp lên cá nuôi ao thông qua hoạt động lấy nước, thay nước. Mặt khác, lũ về cũng khiến cho mực nước trong các vùng nội đồng dâng cao gây ra hiện tượng tràn bờ, phá bờ, đặc biệt là gây ra áp lực phèn lên ao nuôi cá khi nước lũ mới xuất hiện, từ đó gây thất thoát hay tác động xấu lên cá nuôi.
Do đó, để hạn chế những thiệt hại trong nuôi trồng thủy sản trong mùa lũ, bà con nông dân có ao cá nước ngọt trong vùng thường xuyên có lũ cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Những hộ sinh sống bằng nghề ương nuôi cá giống trên ruộng trong những khu vực có lũ hàng năm, cần thu hoạch ngay để tránh thiệt hại, bởi các hoạt động gia cố bờ ao, thu giữ cá giống trong những khu vực này không có hiệu quả. Những hộ trong vùng lũ có dự định ương cá giống trong thời gian tới thì cần đợi sau khi lũ rút mới tiến hành ương nuôi cá.
Đối với những hộ có ao nuôi cá thịt ngoài khu đê bao, nếu cá đạt kích cỡ thương phẩm và có giá cao thì cần tranh thủ thu hoạch ngay để tránh lũ, nhưng nếu cá chưa tới lứa thu hoạch hoặc có giá thấp, bà con nuôi cá cần sang dồn cá vào ao có kích thướt nhỏ hơn để dễ quản lý. Chú ý, không nên dồn cá với mật độ quá cao, trong quá trình bắt cá cần thao tác nhẹ nhành, tránh xây sát để không ảnh hưởng đến sức khỏe cá nuôi; bờ ao cần gia cố chắc chắn, rào lưới chung quanh ao với độ cao lưới cao hơn 0,5m so với đỉnh lũ cao nhất của các năm trước.
Nếu ao nuôi cá thịt nằm trong khu đê bao, bà con nuôi cá cần gia cố kỹ bờ ao để tránh áp lực phèn từ ngoài rò rỉ vào ao gây biến động pH, rào lưới xung quanh ao với chiều cao lưới phải cao hơn bờ ao 0,5m để tránh cá thất thoát do nước tràn bờ. Song song đó, cần đào rảnh xung quanh ao và rải vôi vào rảnh này (5-7kg/100m2) để ngăn không cho phèn bên ngoài tràn vào ao. Sau đó, cũng cần hòa vôi vào nước tạt đều khắp ao (2-3kg/100m3) để nâng pH, đồng thời lắng tụ các chất hữu cơ lơ lửng trong nước. Bà con nuôi cá nằm trong khu đê bao cần lưu ý, hạn chế thay nước ao nuôi cá trong thời gian có lũ để không gây biến động môi trường nước trong ao, ảnh hưởng xấu đến cá.
Đối với những hộ nuôi cá lồng bè, cần tranh thủ thu hoạch nếu cá đạt cỡ thương phẩm. Nếu cá chưa tới cỡ thu hoạch cần chăm sóc kỹ, cho ăn đầy đủ, đúng liều lượng với những loại thức ăn viên công nghiệp có chất lượng, tăng cường sức đề kháng cho cá trong “mùa nước son” bằng cách trộn Vitamin C vào thức ăn, thường xuyên theo dõi sức khỏe của cá để có biện pháp xử lý kịp thời. Cần lưu ý, trong mùa nước son, bà con nuôi cá bè không nên thả giống do môi trường nước xấu nên tỷ lệ cá hao hụt sẽ rất cao.
Rút kinh nghiệm để tránh lũ các năm sau, bà con ương nuôi cá vùng thường xuyên ngập lũ cần tính toán thời gian nuôi và lựa chọn đối tượng nuôi phù hợp để thu hoạch trước khi lũ về.

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Chăn nuôi heo kiểu chuồng kín

Có mặt tại trại thực nghiệm của Công ty VIC, chúng tôi thực sự thích thú bởi những chuồng nuôi heo không có mùi hôi và heo được nuôi tại đây cũng rất sạch sẽ. Để có được điều đó là do sự bố trí chuồng trại, cách thức chăn nuôi, chăm sóc heo hợp lý. 

Anh Lương Văn Đạt, cán bộ phụ trách kỹ thuật chăn nuôi tại trại thực nghiệm VIC cho biết: Heo thịt chăn nuôi tại trại vừa cung cấp cho thương lái trên địa bàn, vừa phục vụ cho công nghệ " Giò vàng Tiên Lãng" của Công ty Vic. Đối với hệ thống chuồng nuôi kín, trại bố trí 4 quạt hút gió, có hệ thống giàn mát nhằm điều hòa nhiệt độ trong chuồng. Nhiệt độ đảm bảo cho lợn nái khoảng 25-280C. Đối với chuồng nái chửa, trại bố trí theo từng ô chuồng và đặt cách nhau khoảng 50 cm/con. Mật độ đối với nái nuôi con khoảng 3 m2/con nái nuôi con, heo thịt 1,2-1,3 m2/con.

Để giúp cho vật nuôi có được những phút thư dãn, tắm mát ngay tại chuồng, cán bộ kỹ thuật của công ty đã bố trí bể nước tắm ở ngay cuối chuồng. Đây chính là nơi điều hòa thân nhiệt cho những chú heo của trại ngày nắng nóng. Nguồn nước điều hòa này được xả, thay 2 lần/ngày. Về mùa đông, bố trí bạt che chắn giúp cho vật nuôi ấm áp, tránh khỏi bị gió lùa. Mỗi chuồng nuôi có một máng ăn dài, đặt sát tường theo cả chiều ngang và chiều dọc.

Nguồn thức ăn áp dụng cho heo nái và heo thịt đều là sử dụng ngũ cốc lên men lỏng. Đối với heo nái cho phối trộn loại thức ăn đậm đặc S1, S2 hoặc S1-2. Riêng heo nái chờ phối sử dụng khẩu phần 2,5 kg/ ngày. Còn đối với heo nái mang thai chia làm hai thời kỳ: Chửa kỳ 1 ăn 1,5-1,8 kg/ngày và heo nái chửa kỳ 2 ăn 2,5 kg/ngày. Heo nái dạ đẻ lứa đầu thường cổ tử cung hẹp.

Để tránh tình trạng khó sinh ở heo nái dạ, trại cho heo nái hậu bị chửa kỳ 2 và 1 ăn bằng nhau. Heo nái chờ phối cho khẩu phần ăn bằng chửa kỳ 2 nhằm giúp cho heo phục hồi cơ thể sau nuôi con.

Nái nuôi con trại cho sử dụng 14% protein, tỷ lệ 19-20% đậm đặc tương ứng với 81-80% ngũ cốc. Đối với heo thịt tùy theo khả năng ăn của từng đàn, nhân viên kỹ thuật của trại lên kế hoạch điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Ví dụ đối với heo 61-80 ngày tuổi, trọng lượng 18-30kg, bố trí từ 1-1,5kg thức ăn/con/ngày, tỷ lệ pro thức ăn là 17% kết hợp với loại thức ăn ngũ cốc + SH33;... Trước khi xuất bán lợn thịt 14 ngày thay thế SH99 bằng S3000.

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Hốt bạc từ nuôi tép rêu

Thời gian gần đây, nông dân Huỳnh Chấn Kim (Ba Kim), khóm Tây Khánh 7, phường Mỹ Hòa (TP.Long Xuyên, An Giang) liên tục gặt hái thành công với mô hình nuôi tép rêu rất độc đáo.

Bỏ con tôm “ôm” con tép

Nông dân trong vùng vẫn thường nói vui về ông Kim, rằng: “Ông ấy bị tửng, người ta “thả con tép bắt con tôm”, ai đi làm chuyện ngược đời- bỏ con tôm bắt con tép”. Thế nhưng, ý tưởng nuôi tép rêu lại nhanh chóng mang lại thành công cho nông dân Huỳnh Chấn Kim, còn ông chỉ nói đơn giản: Muốn thành công là phải nắm bắt thị trường. Ngày xưa tép rêu rẻ mạt, nhiều lúc nông dân còn phải nhọc công vớt bỏ vì tép rêu dày đặc trên ruộng, cản trở việc xuống giống. Về sau, thuốc trừ sâu dùng nhiều nên đã tép rêu bị tiêu diệt sạch, trong khi đó, thị trường thì vẫn ưa chuộng những món ăn từ con tép rêu nên nó lặng lẽ lên giá hồi nào chẳng hay. Hiện ở chợ, 1kg tép rêu có giá từ 100.000 – 130.000 đồng, vào mùa khô (mùa nghịch), giá có thể cao hơn. “Về mặt giá trị thương phẩm, hiện nay con tép chỉ bằng 1/3 con tôm, nhưng vốn đầu tư cho tép ít và hầu như không có rủi ro”– ông Kim cho biết.

Trước đây, với quyết tâm chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi hiệu quả, ông Kim đã mạnh dạn chuyển 10 công (10.000m2) đất lúa sang nuôi thủy sản, và hiện đang chuyển từ 5 công đất sang nuôi tép rêu. Đưa chúng tôi đi thăm mô hình tép rêu của mình, ông Kim kể: “Tôi đang nghĩ trong đầu phải tìm một con gì khác không đụng hàng để nuôi thì tình cờ thấy vuông cá tra kế bên thu hoạch, người ta bơm nước ra và hứng tép bán. Thấy tép trứng nhiều, tôi mua 3kg thả thử và nhận thấy, đây là mô hình rất hay vì tép mau lớn, tỷ lệ hao hụt không đáng kể”. Để giảm chi phí, thỉnh thoảng ông Kim còn trộn cho tép ăn ốc bươu vàng xay nhuyễn. “Kết quả thu hoạch lần đầu thật bất ngờ. Tôi bắt tép bằng cách đặt lợp vào ban đêm, sau đó thu gom các lợp rồi thả vô vỏ lưới cước thưa hơn, cho tép nhỏ thoát ra bớt, 5kg còn lại 4kg, sáng ra vớt lên đem bán, giá 100.000 đồng/kg. Quá đã!”– ông Kim cười to.

Nuôi tép giữa mùa tép

Tép rêu (còn gọi là tép rong, tép đồng) thường có nhiều trên đồng ruộng, đặc biệt, tép rêu sinh sôi nảy nở mạnh trong mùa nước nổi. Trên thực tế, xưa nay nông dân ĐBSCL chưa ai nghĩ đến việc nuôi tép rêu, nhất là lại đi nuôi tép giữa mùa tép. “Nhưng là nông dân thời kinh tế thị trường thì phải nhanh nhạy, phải nắm bắt nhu cầu thị trường, vài ngày tôi phải đi chợ một lần để khảo sát giá cả, tìm mối lái. Dù nuôi giữa mùa tép, song vẫn hốt bạc như chơi…”– ông Kim tự tin nói.

“Con tép rêu ở môi trường thiên nhiên sẽ đẻ nhiều, trưởng thành rất nhanh. Tôi đã dựa vào kỹ thuật nuôi tôm càng xanh để thử nuôi tép rêu và trồng bông súng, mã đề để chúng được sống như trong tự nhiên” – ông Huỳnh Chấn Kim cho biết.

Vừa gây dựng mô hình hồi cuối tháng 6.2013, đến nay, tính ra mỗi ngày ông Kim thu hoạch trung bình từ 2–3kg tép, giá bán ở chợ quê dao động từ 90.000–100.000 đồng/kg. Ông Kim cho biết: Sau khoảng 15 ngày thu hoạch liên tiếp, lượng tép lớn bắt được sẽ sụt giảm, do đó cần ngừng lại chừng 1 tuần rồi tiếp tục thu hoạch.

Tỷ phú rô phi Đài Loan

Anh Nguyễn Văn Xuân ở xóm Trung Hồng, xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu (Nghệ An) cho biết, anh bắt đầu nuôi cá rô phi đơn tính Đài Loan vào tháng 9/2012. Giống rô phi lai này có tỷ lệ đực rất cao, đạt 99 - 100%. Kích thước, trọng lượng cơ thể lớn, mình ngắn, đầu nhỏ, lưng cao, tỷ lệ thịt nhiều, thơm ngon.

Rô phi Đài Loan có thể nuôi được trong môi trường nước ngọt, nước mặn - lợ. Tốc độ sinh trưởng nhanh, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao, dùng thức ăn công nghiệp, một năm nuôi đạt tới 1,8 - 2,0 kg/con.

Với tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của anh Xuân là 2,3 ha, trong đó 3 ao nuôi cá rô phi Đài Loan 1,8 ha, thả 4 con/m2, tổng thả 72.000 con giống x 3 vụ/năm = 216.000 con. Cỡ thu hoạch bình quân 400 gr/con = 86,4 tấn/năm x 28.000 đ/kg cá thương phẩm = 2.419.200.000 đồng. Trừ chi phí vôi cải tạo, con giống, thức ăn, điện nước, thuốc phòng trị bệnh và chi phí khác là 1.400.000.000 đồng, còn lãi 1.019.200.000 đồng.

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

Nuôi thủy sản trên đất lúa

Nhằm giúp nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, tăng thu nhập trên cùng diện tích canh tác, Trung tâm KN-KN Hậu Giang triển khai nhiều dự án nuôi thủy sản trên đất lúa theo mô hình luân canh lúa - tôm càng xanh; lúa - cá mang lại hiệu quả gấp nhiều lần lúa.

Theo lịch hẹn, tôi được ông Phan Văn Kỳ, cán bộ kỹ thuật Trung tâm KN-KN Hậu Giang dẫn đi thăm mô hình nuôi tôm càng xanh luân canh trên nền đất lúa của hộ nông dân Phạm Văn Trung, ở ấp Trường Phước, xã Trường Long Tây, Châu Thành A.

Thời điểm này, người dân địa phương đang chuẩn bị thu hoạch lúa thu đông, nhưng phần lớn nông đều tỏ ra không vui vì lúa bị mưa bão làm đổ rạp, giá công cắt tăng rất cao. Nông dân phải mướn máy rút nước ra để cứu lúa. Trái ngược với mọi người, anh Trung lại đặt máy để bơm vào ruộng thay nước cho đám tôm càng xanh đang thời kỳ phát triển mạnh.

Anh Phạm Văn Trung cho biết, gia đình có tổng cộng 5 ha đất lúa, riêng 1 ha sau nhà được lên đê bao kỹ giữ nước để luân canh thủy sản lúa - thủy sản. “Sau vụ lúa hè thu, tôi không làm tiếp lúa thu đông mà chuyển sang nuôi thủy sản. Có năm nuôi cá rô đồng, hoặc nuôi ghép nhiều thứ cá rô, cá chép, cá mè… Năm nay được Trung tâm KN-KN tỉnh hỗ trợ nuôi tôm càng xanh, hy vọng thành công sẽ mở ra hướng đi mới”, anh Trung tâm sự.
Theo anh Trung, mỗi ha nuôi cá, sau 5-6 tháng chăm sóc sẽ cho thu nhập khoảng 150 triệu đồng, chỉ cần lợi nhuận 50% đã gấp nhiều lần so với trồng lúa. Còn nếu nuôi tôm càng xanh, năng suất đạt khoảng 1 tấn/ha là thành công, vì loài này có giá trị kinh tế cao.

Hiện nay, tôm càng xanh của hộ anh Trung đã thả được gần 3 tháng, trọng lượng đạt khoảng 100 con/kg. Nếu chăm sóc tốt, hơn 2 tháng nữa sẽ cho thu hoạch. Anh Trung cho biết: “Nếu vụ này thành công thì sang năm sẽ bỏ luôn vụ lúa hè thu để chuẩn bị mặt đất cho thật tốt, cũng như có thời gian dài để nuôi tôm đạt cỡ lớn, bán được giá cao hơn”.

Tương tự, hộ anh Võ Hồng Quang ở ấp Trường Lợi, xã Trường Long Tây cũng mạnh dạn bỏ vụ lúa để nuôi tôm càng xanh trên diện tích 1,3 ha. Đây không phải là năm đầu tiên anh Quang nuôi tôm càng xanh trên đất lúa.

“Cách đây 2 năm tôi đã đầu tư nuôi tôm cành xanh, năng suất đạt 1,3 tấn/ha, bán giá 140.000 đồng/kg, thu được hơn 180 triệu, trừ chi phí còn lãi gần 100 triệu. Đây là mức lợi nhuận rất cao, trồng lúa 3 vụ/năm thu nhập cũng thua xa một vụ tôm”, anh Quang phấn khởi nói.

Vụ tôm này được Trung tâm KN-KN tỉnh hỗ trợ con giống và một phần thức ăn, anh Quang dự định nuôi tôm đạt cỡ 15-20 con/kg mới thu hoạch, nhằm bán được giá cao.

Ông Nguyễn Thế Kỷ, Trưởng trạm KN-KN huyện Châu Thành A cho biết, năm nay huyện có kế hoạch thả nuôi 350 ha thủy sản trên đất lúa, đến nay nông dân đã thả nuôi được 313 ha. Nông dân chủ yếu chọn các loại cá dễ nuôi như rô đồng, rô phi, cá mè vinh, cá chép…

Ngoài những mô hình nuôi có đầu tư thức ăn, năng suất và hiệu quả cao do Trung tâm KN-KN tỉnh hỗ trợ, nông dân còn nuôi theo hình thức quảng canh, tận dụng nguồn thức ăn có sẵn trong mùa nước nổi.

Theo đó, cá giống sẽ được thả nuôi trước trong ao 1-2 tháng, sau khi thu hoạch lúa sẽ cho cá lên ruộng kiếm thức ăn. Trong suốt mùa nước lũ tràn đồng, nông dân sẽ dùng lưới cước bao quanh toàn bộ khu ruộng để giữ cá cho đến khi nước rút mới thu hoạch để chuẩn bị gieo sạ lúa đông xuân.

Ông Kỷ cho biết: “Nuôi theo hình thức này năng suất chỉ đạt 600-800 kg cá thương phẩm/ha nhưng lợi nhuận vẫn rất cao, do không phải tốn chi phí thức ăn, thịt cá săn chắc, thơm ngon nên dễ tiêu thụ”.

Ông Phan Văn Kỳ cho biết, năm 2013 Trung tâm KN-KN tỉnh triển khai 2 dự án thủy sản trên đất lúa là nuôi tôm càng xanh và nuôi cá. Trong đó, mô hình nuôi tôm càng xanh luân canh trên ruộng lúa thực hiện tại huyện Châu Thành A, quy mô 2 ha, với 2 hộ nông dân tham gia.

Theo đó, Trung tâm sẽ hỗ trợ 100% tiền mua con giống (giống toàn đực, mua tại An Giang, giá 360 đồng/con), 30% chi phí thức ăn trong suốt vụ nuôi. Mật độ thả 6 con/m2, thời gian nuôi 6 tháng, mục tiêu của dự án là tỷ lệ tôm sống đến khi thu hoạch đạt trên 50%, hệ số tiêu tốn thức ăn là 1,3 kg thức ăn/kg tôm thương phẩm, năng suất đạt từ 0,9 tấn/ha trở lên. Tổng số vốn thực hiện mô hình này là trên 118 triệu đồng, trong đó nông dân được hỗ trợ 72 triệu đồng từ nguồn kinh phí khuyến ngư của tỉnh.

Còn mô hình luân canh lúa - cá được thực hiện ở 2 huyện là Châu Thành A và Long Mỹ với 9 hộ dân tham gia, tổng kinh phí 488,6 triệu đồng, trong đó Trung tâm Khuyến nông Quốc gia hỗ trợ 259 triệu đồng, còn lại dân đóng góp.

Mô hình thả nuôi theo 2 nghiệm thức: 80% cá sặc rằn + 15% cá rô đồng + 5% cá mè vinh hoặc 80% cá rô đồng + 15% cá sặc rằn + 5% cá mè vinh, mật độ thả nuôi 10 con/m2. Mục tiêu của dụ án là năng suất đạt từ 10 tấn/ha trở lên sau 6 tháng thả nuôi, mức tiêu tốn là 1,3 kg thức ăn /1 kg cá thương phẩm. Nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% con giống, 30% chi phí thức ăn, được tập huấn kỹ thuật.

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Ứng dụng công thức mới luân canh cây trồng

Trong khuôn khổ chương trình KH&CN phục vụ xây dựng NTM, UBND xã Minh Tân (huyện Thủy Nguyên) thực hiện công thức luân canh cây trồng mới: Lúa mùa cực sớm - bí xanh vụ đông sớm - lúa xuân muộn.

Trước đây, bà con xã Minh Tân sử dụng công thức luân canh: Lúa mùa trung (sớm) - bí xanh (giống cũ) vụ đông chính vụ - lúa xuân muộn (mạ sân) hay lúa mùa sớm - bí xanh vụ đông chính vụ - lúa xuân muộn. Tuy nhiên công thức luân canh trên chưa nâng cao được thu nhập trên một đơn vị diện tích, cây bí xanh chính vụ vẫn rơi vào tình trạng “được mùa rớt giá”.

Thêm vào đó, việc SX vụ đông trở nên cập rập vì thời gian giữa thu hoạch vụ mùa trung sớm và vụ đông quá ngắn, không kịp ủ rơm rạ thành mùn cho cây trồng vụ đông, chịu ảnh hưởng của rét đậm, rét hại…

Nhận chuyển giao công nghệ từ Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng KH&CN Hải Phòng, xã Minh Tân đã xây dựng mô hình ứng dụng công thức luân canh cây trồng mới: Lúa mùa cực sớm - bí xanh vụ đông sớm - lúa xuân muộn. Đồng thời, ứng dụng một số TBKT mới hỗ trợ cho công thức luân canh này. Đó là sử dụng chế phẩm Compost maker xử lý rơm rạ thành phân bón hữu cơ, sử dụng giá thể dinh dưỡng gieo ươm bầu cây bí xanh, sử dụng loại phân bón mới A5 cho cây lúa, cây bí xanh.

Việc sử dụng chế phẩm Compost maker để xử lý 1 tấn rơm rạ thành phân mùn hữu cơ bón cho cây trồng, mang lại lợi ích kinh tế cho người dân và góp phần bảo vệ môi trường. Phân bón A5 và giá thể dinh dưỡng để gieo ươm bầu cây bí xanh cũng được coi là giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tác động của điều kiện thời tiết đến sự sinh trưởng và năng suất của cây trồng.

Công thức luân canh cây trồng mới được triển khai thực hiện trên diện tích 5 ha, với sự tham gia của 80 hộ dân. Công thức mới đã khắc phục được những nhược điểm của công thức cũ và giá nông sản cao hơn thời điểm thu hoạch của công thức luân canh cũ.

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Tỷ phú đu đủ

Anh Đỗ Phú Ngự (ảnh) ở ấp Trảng Lớn, xã Hắc Dịch, huyện Tân Thành, Bà Rịa - Vũng Tàu hằng năm thu hàng tỷ đồng nhờ cây đu đủ nhờ mạnh dạn chuyển đổi giống mới, sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt giúp tăng năng suất, chất lượng cao…

Trao đổi với chúng tôi, ông Vũ Đình Lương, Bí thư chi bộ ấp Trảng Lớn cho biết: “Anh Ngự là một nông dân rất cần cù chịu khó, năng động, người đầu tiên ở xã mang giống đu đủ mới về trồng và ứng dụng hệ thống tưới nhỏ giọt. Đây là một mô hình rất mới, chúng tôi cũng đang khuyến khích nhân rộng ở địa phương”.

Anh Ngự cho biết, quê anh ở Quảng Nam vào lập nghiệp. Lúc mới vào gia đình anh trồng bắp, củ mì, rồi lên Gia Lai mua đất trồng cà phê, làm được mấy năm do giá cả thất thường không ổn định dẫn tới thất bại. Làm hoài, kinh tế gia đình vẫn khó khăn, cái túng, cái thiếu vẫn đeo bám quanh năm.

Năm 2007, anh quay về xã Hắc Dịch thuê 5.000 m2 đất để trồng đu đủ. Lúc đầu anh trồng đu đủ thường, do thiếu kinh nghiệm, chưa có kỹ thuật, cây chết gần hết, còn lại một số cây èo ọt, năng suất rất thấp.

Không nản chí, năm 2010 anh lặn lội về tỉnh Long An, đi tham quan ở huyện Đức Hòa, Đức Huệ, thấy người dân ở đây trồng đu đủ rất tốt, cây nào cây nấy quả ra từ gốc tới ngọn. Hỏi thăm mới biết họ đang trồng giống đu đủ ruột vàng (Da Bông) năng suất rất cao, anh liền lân la học hỏi kinh nghiệm và mua giống về trồng .

Sau khi đi tham quan thực tế, được học hỏi kỹ thuật, anh đã mua giống về trồng kín 5.000 m2. Nhờ chịu khó cần cù, chăm sóc đúng kỹ thuật, cây đu đủ phát triển tốt. Cây mới cao 60 - 80 cm đã bắt đầu cho trái và đến ngày thứ 80 cũng là lúc cả vườn đu đủ chuyển sang màu vàng, báo hiệu vụ thu hoạch đầu tiên đã đến.

Ngày thu hoạch, cả xóm tới xem, ai cũng giật mình bất ngờ vì từ trước tới giờ người dân chỉ quen trồng cây mì, cây bắp, thu nhập rất thấp. Nay người dân trong ấp được tận mắt nhìn thấy những cây đu đủ trái như xếp từ gốc lên tới ngọn.

Bình quân mỗi cây có khoảng 70 - 150 trái. Vụ thu hoạch đu đủ năm ấy kết quả thu được ngoài sự mong đợi, vừa được mùa (90 tấn quả/5.000 m2), vừa trúng giá (7.000 - 14.000 đ/kg). Từ thành công ban đầu, anh đầu tư thêm diện tích, vừa mua, vừa thuê được 4 ha đất chuyên canh cây đu đủ.

Anh Ngự tâm sự: “Bản thân tôi là người trực tiếp trồng cây đu đủ cũng bất ngờ, huống chi người khác. Thấy được hiệu quả từ giống đu đủ này, nhiều người tới tham quan và hỏi mua giống. Thế là tôi trở thành “bà đỡ” đu đủ bất đắc dĩ!”.

Để chủ động cung cấp giống cho bà con và trang trại của gia đình, anh đã tự mày mò nghiên cứu, nhân giống bằng phương pháp gieo hạt. Có thể nhân giống bằng 2 cách: Sau khi thu hoạch trái vụ thứ nhất, có thể biết cây nào phát triển tốt, sai trái, mẫu mã đẹp. Cây bắt đầu ra bông đợt thứ 2, bông chuẩn bị nở thì tiến hành bao bông (ngăn ngừa thụ phấn chéo).

Nhân giống theo cách này, chất lượng cây giống rất khỏe và có tính năng như cây mẹ, khi nào đậu trái non thì mở ra và đánh dấu những trái đó, chờ chín sẽ bổ ra lấy hạt để ương.
Cách thứ 2, chọn trực tiếp trái chín ở những cây khỏe mạnh, sai trái, trái nằm giữa thân cây, bổ ra lấy hạt cho vào chậu nước, hạt nào nổi lên vớt bỏ, lấy hạt chìm rồi mang ươm vào bịch. Cây mọc khoảng 10 - 12 cm là mang ra trồng hoặc xuất bán được.

Anh Ngự cho hay, đặc điểm của giống đu đủ này khi chín ruột vàng, có vị ngọt đậm đà, ăn vừa giòn, vừa dai. Trái thon dài, trọng lượng trung bình từ 2 - 2,5 kg, chăm sóc tốt được 3kg/trái. Thời gian thu hoạch, từ khi trồng tới thu hoạch là 80 ngày (rút ngắn thời gian trồng so với các loại cây đu đủ khác từ 15 - 30 ngày), cây trồng được 2 năm phá bỏ, trồng xen canh các loại cây khác, sau đó trồng đu đủ lại.

Song song với việc hoàn thiện quy trình trồng, chăm sóc và nhân giống cây đu đủ, anh Ngự còn trú trọng ứng dụng hệ thống tưới nhỏ giọt nhằm tiết kiệm điện, nước. Đặc biệt là ngày công lao động, tăng hiệu quả kinh tế.

Hiện mỗi ngày gia đình anh thu hoạch từ 5 - 6 tấn trái (một xe tải) cung cấp cho tỉnh Đồng Nai và chợ đầu mối TPHCM. Ngoài ra còn SX 70 - 80 thiên cây đu đủ giống ( mỗi thiên 1.000 cây) với giá bán 4.000 đ/cây. Chủ yếu bán giống cho tỉnh Đồng Nai, Phan Thiết, Bình Thuận…

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Nuôi gà thành tỷ phú

Từ một nông dân lam lũ, ông Nguyễn Văn Nam (62 tuổi), ở xã Nhơn Thọ, thị xã An Nhơn, Bình Định) đã trở thành tỷ phú. Biến đồi hoang thành trang trại chăn nuôi, gia đình ông đạt mức thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm…

Rất nhiều nông dân đã “xuống ruộng” vì giấc mộng chăn nuôi trang trại và rồi vỡ mộng. Nhưng nhờ linh hoạt tìm đầu ra, ông Nam luôn duy trì lợi nhuận trong sản xuất – kinh doanh và được bình chọn danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc 2013”.

Hiện thực ước mơ làm giàu từ đất

Đất đai vùng Nhơn Thọ không màu mỡ, nhưng từ thời trai trẻ ông Nam đã nuôi ước mơ làm giàu bằng nghề nông. Sau thời gian dài đắp đổi, năm 2000, ông Nam bàn với vợ quyết định làm ăn lớn với việc ký kết chăn nuôi gia công cho Công ty cổ phần Chăn nuôi CP (Thái Lan). Vợ chồng ông gom hết gia sản được khoảng 30 triệu đồng và vay ngân hàng 10 triệu đồng để đầu tư xây dựng chuồng trại trên vùng đồi hoang ở thôn Đông Bình (Nhơn Thọ).
Ông Nam cho hay, nhiều người nói ông liều mạng vì đây là vùng đất khô cằn sỏi đá, chăn nuôi lúc ấy lại luôn bấp bênh về giá cả, dịch bệnh. Thế nhưng ông thấy được tương lai của vùng đồi này trong phát triển trang trại theo quy mô khép kín, không ảnh hưởng đến môi trường cộng đồng, cách ly dịch bệnh cho vật nuôi… Nhìn được lợi nhuận từ nghiên cứu kỹ các điều khoản hợp đồng, bao tiêu sản phẩm khi bắt tay chặt chẽ với doanh nghiệp. Ông lo đầu tư cơ sở chuồng trại, công chăm sóc; còn doanh nghiệp cam kết bao tiêu toàn bộ sản phẩm chăn nuôi, đầu tư toàn bộ con giống, thức ăn, kỹ thuật thú y…

Ông chia trang trại 7ha thành các khu chăn nuôi gà, heo, bò lai, ao cá, trồng rừng… Mỗi năm, ông nuôi 5 lứa gà siêu thịt (9.000 con/lứa), 2 lứa heo thịt (700 con/lứa), 2ha cá nước ngọt… với thu nhập hàng tỷ đồng/năm. “Khó khăn thử thách trong chăn nuôi lớn là rất nhiều. Bí quyết làm trang trại của tui là phải tìm được nơi tiêu thụ ổn định, suy từ đầu ra để quyết định đầu tư. Điều này tránh tình trạng sản phẩm bị ế ẩm, mất giá” - ông Nam chia sẻ.

Bắt tay với doanh nghiệp

10 năm thắng lợi trong chăn nuôi gia công, năm 2011, ông Nam quyết định “độc lập chiến đấu”. Ông lý giải: “Sự biến động liên tục của thị trường vật tư chăn nuôi, dẫn đến việc nuôi gia công không còn lợi nhuận cao. Lúc đó, trang trại tui đã đủ sức tự vươn ra và tìm được hướng kinh doanh mới. Tui chấm dứt nuôi heo, chuyển từ nuôi gà siêu thịt sang tập trung nuôi gà ta, cung ứng giống. Phải dứt khoát chuyển hướng, chứ nếu dùng dằng là “chết chùm”. Cùng lúc, tui vẫn duy trì lợi nhuận “lai rai” từ 2ha ao cá, đàn bò lai, rừng trồng… Tạo việc làm thường xuyên cho 12 lao động, với thu nhập bình quân 3,6 triệu đồng/người/tháng”.

"Khó khăn thử thách trong chăn nuôi lớn là rất nhiều. Bí quyết làm trang trại của tui là phải tìm được nơi tiêu thụ ổn định, suy từ đầu ra để quyết định đầu tư. Điều này tránh tình trạng sản phẩm bị ế ẩm, mất giá”.
Ông Nguyễn Văn Nam

Cú “bắt tay” mới của ông Nam là với Công ty TNHH Giống gia cầm Minh Dư (huyện Tuy Phước, Bình Định). Sau ký hợp đồng với công ty, ngay trong năm 2012, ông đổ vốn nhập nuôi 15.000 mái giống gà đồi Yên Thế. Hiện, đàn gà cho trứng giống đã nâng lên 20.000 con, đạt mức lãi ròng ổn định 180 triệu đồng/tháng. Giá sàn trứng gà giống nội hiện 4.200 đồng/quả, trong lúc trứng gà thực phẩm cùng loại là 1.800 đồng/quả. Lúc này, gà nội đang “lên ngôi” nên trứng giống hút hàng, ông Nam dự tính tiếp tục nâng lượng đàn gà.

Ông nhìn nhận: “Cuộc chiến chống gà nhập lậu vào Việt Nam vẫn còn hết sức cam go. Nếu hạn chế tối đa lượng gà nhập lậu thì điều kiện phát triển của đàn gà giống nội ở nước ta sẽ rất sáng sủa. Bởi thương hiệu nhiều giống gà thuần Việt đang bắt đầu được ưa chuộng mạnh trong và ngoài nước”.
TNăm 2010, ông Nguyễn Văn Nam được Trung ương Hội Nông dân Việt Nam trao Giải thưởng “Sao Thần nông”. Năm 2012, ông được nhận bằng khen của Hội Nông dân Việt Nam tại Hội nghị tổng kết phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi toàn quốc lần thứ VI.

Trồng lúa cho cá... phá, thu lãi to

Ông Mạc Hồng Sự (thôn Gia, xa Yên Đồng,Yên Lạc, Vĩnh Phúc) đã nảy ra cách trồng lúa cho cá phá! Kết quả lại thu lãi to.

Nhìn đầm cá rộng 1,3 mẫu của ông Sự thời điểm này chỉ thấy toàn lúa đang thì đẻ nhánh ken dày đặc. Đứng xa thấy ngọn lúa rùng rùng như có vịt thả đồng. Tới gần quan sát kỹ mới thấy từng đàn cá trắm cỏ đang phơi mình đua nhau ngấu nghiến lúa. Ông Sự cho biết trước đây, với hơn 600 đầu trắm cỏ trọng lượng từ 500 đến 700g/con như hiện tại thì mỗi ngày chúng phải ngốn ít nhất 200kg cỏ mới đủ. Với giá cỏ mà các chủ đầm ở Vĩnh Phúc hiện nay mua là 30.000đ/tạ thì mỗi ngày đàn cá của ông ngốn hết trên 60 nghìn là ít. Bây giờ thì khoẻ re, ông Sự không còn phải vất vả kiếm cỏ cho cá hay phải bỏ tiền mua cỏ nữa mà chỉ đủng đỉnh ngồi xem đàn cá lớn nhanh như thổi.

Ông Sự kể: Cá trắm cỏ phàm ăn và dễ nuôi. Nếu đảm bảo được thức ăn thì lãi to. Cái khó là kiếm cỏ để chúng ăn thoải mái thì khó xuể. Tới những năm 2005, mô hình nuôi cá – lúa kết hợp nở rộ tại nhiều trang trại ở Vĩnh Phúc. Thế nhưng hầu hết các chủ đầm đều chỉ dám thả xen vào đầm lúa các loại cá không ăn cỏ như mè, trôi, gáy... Nếu thả cá trắm cỏ, chúng sẽ “tàn sát” lúa đến tận gốc. Ông Sự nảy ra ý nghĩ: “Tại sao mình không thử cho cá trắm cỏ ăn lúa?”.

Năm 2008, khi lúa bắt đầu đẻ nhánh ông cho thả thử nghiệm 150 con trắm cỏ loại 200g/con vào đầm lúa 5 sào. Kết quả làm ông hết sức ngạc nhiên. Cá trắm cỏ ham ăn lúa hơn cả các loại cỏ thông thường như cỏ sữa, cỏ vực… Sau một thời gian thả sang đầm lúa, cá “chê” luôn cả loại cỏ sữa trước đây chúng rất hạp. Chỉ sau hơn 2 tháng, trọng lượng cá đã đạt hơn 1kg/con. Đến thời điểm lúa bắt đầu chín thì 2/3 diện tích lúa đã bị đàn cá “xơi” gọn. Điều làm ông Sự ngạc nhiên hơn là trắm cỏ còn tung mình lên mặt nước kéo lúa bông xuống ăn y hệt như vịt thả đồng. Đến lúc cá đạt trọng lượng 1,5kg/con có thể thu hoạch thì gần như 100% diện tích lúa cũng được những chú trắm cỏ thu dọn sạch sẽ.

Sau 2 lần nuôi thử nghiệm, vụ đông xuân 2009 này ông Sự quyết định chuyển hẳn 1,3 mẫu đầm sang gieo sạ lúa cho cá trắm cỏ ăn. Bắt đầu vụ, ông tháo cạn đầm và gieo sạ lúa Khang dân với mật độ dày. Đồng thời ông dành một ao kế bên ươm sẵn hơn 600 con trắm cỏ. Đến thời điểm lúa gieo sạ được trên 30 ngày (cao khoảng 30cm), ông bắt đầu cho dâng nước từ từ vào đầm lúa để lúa vượt cao lên. Cùng lúc, ông cho thông 2 ao để cá trắm cỏ lớn cỡ ngón chân cái đã ươm sẵn ở đầm bên cạnh chuyển sang đầm lúa. Đến nay, mới chỉ sau 1 tháng 20 ngày (kể từ lúc chuyển sang đầm lúa) nhưng theo quan sát của chúng tôi, hầu hết cá đã đạt trọng lượng hơn 600g/con. Theo tính toán của ông Sự, mỗi đầu cá trắm cỏ nếu đảm bảo nguồn thức ăn như thông thường chỉ tăng nhanh nhất khoảng 300g/con/tháng. Còn nếu thả cho ăn lúa, chúng có thể tăng tới hơn 400g/con/tháng. Dự tính sau hơn 2 tháng nữa (sau vụ thu hoạch lúa xuân) thì có thể thu hoạch cá. Trọng lượng cá sẽ đạt hơn 1,5kg/con.

Ông Sự phân tích: Với 1,3 mẫu đầm nếu trồng lúa cùng lắm chỉ thu được 2 tấn. Với giá thóc hiện nay là 4.000đ/kg, trừ chi phí phân đạm, công cấy gặt… cùng lắm chỉ thu được 5 triệu đồng. Trong khi đó nếu thả 600 con trắm cỏ để chúng… xơi lúa thì sẽ thu về không dưới 15 triệu - gấp 3 lần để lúa lại. Ưu điểm của cách nuôi này là cá rất ít bị bệnh do ao luôn sạch sẽ.

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Làm giàu từ mô hình nuôi lợn rừng

Đến nay mô hình của gia đình ông Hùng đã có hơn 100 con lợn rừng, trong đó có 3 con lợn đực giống và 9 con lợn nái sinh sản. Hàng năm từ đàn lợn giống này đã cung cấp cho gia đình ông trên 150 con lợn con


Phát huy phẩm chất anh Bộ đội cụ Hồ, nhiều người lính sau khi trở về địa phương dù mang trong mình thương tật nhưng họ không ngại khó, ngại khổ, tích cực tham gia phát triển kinh tế, làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Ông Quế Phi Hùng, thương binh 1/4 ở xóm Đào Nguyên xã Nghĩa Dũng, huyện Tân Kỳ (Nghệ An) là tấm gương điển hình như thế.

Trở về với cuộc sống đời thường, mặc dù sức khoẻ yếu do vết thương chiến tranh thường xuyên tái phát nhưng ông Hùng vẫn không chịu nghỉ ngơi. Với tinh thần cần cù lao động, ông đã biến vùng đất cằn cỗi ở xóm Đào Nguyên trở thành một mô hình kinh tế VAC tổng hợp với hàng trăm cây ăn quả các loại và cải tạo hơn 2.000m2 mặt nước để chăn nuôi cá.

Không dừng lại ở đó, năm 2008, sau khi đi tham quan thực tế tại một số mô hình chăn nuôi lợn rừng ở các tỉnh phía Bắc, nhận thấy lợn rừng là loài động vật dễ nuôi, sức đề kháng tốt, thường chỉ mắc các bệnh ngoài da và rối loạn tiêu hóa đơn giản, do đó chi phí về thú y rất thấp, thức ăn cho lợn rừng cũng sẵn có.



Đàn lợn rừng của gia đình ông Quế Phi Hùng

Từ những đặc tính tự nhiên của lợn rừng dễ thích nghi với điều kiện thực tế ở địa phương nên ông đã mua một cặp lợn giống về nuôi thử nghiệm.

Để chăm sóc và thuần dưỡng loài vật này, ông đã phải đi nhiều nơi học hỏi kinh nghiệm, tìm hiểu các kiến thức khoa học kỹ thuật về cách chăm sóc và thuần dưỡng lợn rừng. Từ những kiến thức đã tiếp thu được cộng với những kinh nghiệm trong thực tế, ông đã áp dụng trong phát triển chăn nuôi của gia đình mình.

Tận dụng diện tích vườn cây ăn quả với hơn 600 gốc vải, xoài, ông đã đầu tư hơn 20 triệu đồng để xây bờ tường bao bọc xung quanh, vừa tạo môi trường gần giống với môi trường tự nhiên, đồng thời không để đàn lợn ra ngoài phá hoại hoa màu của người dân trong vùng.

Theo ông Hùng, muốn nuôi được lợn rừng trước hết cần phải chọn giống tốt và hội đủ các yếu tố: Dáng cao, bụng thon, lông mượt, mõm thẳng. Tiếp theo cần phải xây dựng chuồng trại đúng quy chuẩn, chuồng nuôi lợn cần có bóng mát, có chỗ cho lợn nghỉ ngơi và nhất là phải tạo được không gian và nền đất thích nghi với bản năng hoang dã của lợn rừng.

Đến nay mô hình của gia đình ông Hùng đã có hơn 100 con lợn rừng, trong đó có 3 con lợn đực giống và 9 con lợn nái sinh sản. Hàng năm từ đàn lợn giống này đã cung cấp cho gia đình ông trên 150 con lợn con.

Chỉ riêng thời gian trong và sau tết Tân Mão vừa qua gia đình ông đã xuất bán được 80 con lợn giống, thu về trên 200 triệu đồng. Thu nhập từ nghề chăn nuôi lợn rừng đã giúp gia đình ông Hùng có của ăn của để và tích luỹ vốn để tái đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi.

Đây cũng là mô hình mà cấp uỷ, chính quyền địa phương và Trạm khuyến nông huyện Tân Kỳ đang có kế hoạch tổ chức cho bà con tham quan học tập để nhân rộng trên địa bàn.

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Tỉ phú nuôi nhím

Gia đình anh Nguyễn Ngọc Hùng và chị Lê Thị Thoa trú tại xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá) là một ví dụ điển hình về nuôi nhím thành công.

Thuần hoá nhím rừng họ còn đang nhân rộng đàn giống về mặt số lượng nhằm phát triển kinh tế. Kể từ năm 2008 đến nay, anh Hùng nuôi được trên 30 cặp nhím sinh sản. Mỗi năm, đàn nhím này đẻ thêm khoảng 60 nhím con. Khoảng 23-24 triệu đồng/cặp nhím giống đã mang lại nguồn thu nhập bình quân hàng năm ngót nghét một tỉ đồng cho đôi vợ chồng này.

Nghề nuôi nhím đang được nhiều người quan tâm vì mang lại giá trị kinh tế cao.

Anh Hùng tâm sự: “Gia đình tôi có 4 thế hệ với 8 khẩu, toàn là những người đều đã hết tuổi lao động. Vợ chồng tôi sinh được hai cháu thì đều đang tuổi đi học, những năm 2005-2007 vợ tôi ở nhà làm 7 sào ruộng, nuôi hơn chục con lợn mà kinh tế gia đình vẫn rất khó khăn”. Anh Hùng là bộ đội nên đồng lương cũng có hạn, tuy nhiên với công việc của người lái xe, được đi đây đi đó nhiều và anh nhận thấy mô hình nuôi nhím khá an nhàn lại là con vật dễ nuôi, thức ăn dễ kiếm, chủ yếu là các loại rau củ quả. Hơn thế, thị trường nhím giống và nhím thịt lại rất rộng mở, nên anh Hùng bàn với vợ phát triển mô hình nuôi nhím tại nhà.

Lúc đầu thấy chồng nói sẽ đưa nhím về nuôi, chị Thoa chưa hình dung ra nuôi con vật đó như thế nào. Giá nhím giống đắt đỏ (23-24 triệu đồng một cặp) nên chị chưa muốn. Anh Hùng kiên trì thuyết phục, tranh thủ ngày nghỉ, đưa vợ đi các huyện trong tỉnh như Vĩnh Lộc, Thạch Thành, có khi sang cả các tỉnh lân cận như Ninh Bình, Nam Định để học hỏi các mô hình. Và rồi chị Thoa đã gật đầu, bán sạch đàn lợn, xuất hầu bao hết những gì vợ chồng dành dụm được bấy lâu và vay thêm 100 triệu đồng xây chuồng trại, mua năm cặp nhím giống về nuôi.

Khách hàng thăm quan mô hình nuôi nhím của gia đình anh Hùng. Ảnh: Anh Tuấn

Gia đình anh Hùng đã thành công ngoài mong đợi, kinh tế trở nên khá giả chỉ sau thời gian chưa đầy 3 năm trời. Đưa chúng tôi đi thăm trang trại với hơn 30 cặp nhím giống, hàng chục đôi nhím con đang phát triển rất tốt, anh Hùng nói: “Hầu như ngày nào cũng có người đến học kinh nghiệm, mua nhím giống về nuôi. Song vì nhu cầu của người dân muốn nuôi nhím tăng lên nên lượng giống sản sinh không kịp, khách hàng muốn mua thường phải đặt trước”.

Chị Thoa cho biết: Về đặc tính của loài nhím thường ăn các loại rau, củ, quả nên chi phí thức ăn không đắt lắm và dễ mua. Bình quân mỗi ngày, một con nhím trưởng thành chỉ ăn hết khoảng 2.000 đồng. Nuôi lợn, bò hoặc gà vất vả, giá cả thị trường không ổn định lại hay mắc dịch bệnh. Với con nhím, người nuôi có thể an nhàn hơn nhiều và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nếu như giá thương phẩm của các loại gia súc, gia cầm khác có thể lên xuống và dao động theo thời giá của thị trường thì đối với loài nhím lại rất ổn định. Một cặp nhím giống khoảng 4 tháng tuổi hiện có giá từ 23-24 triệu đồng; nhím thịt giá bán ngoài thị trường luôn có giá từ 600-700 ngàn đồng/kg. Nuôi nhím không đòi hỏi phải có diện tích chuồng trại lớn, một chuồng nhím chỉ rộng khoảng 3-5m2 là đủ cho một cặp nhím sinh trưởng và phát triển. Mỗi năm một cặp nhím bố mẹ sinh sản hai lứa, mỗi lứa hai con. Như vậy, một cặp nhím sẽ đem về cho gia đình anh chị khoản thu nhập trên 50 triệu đồng/năm.

Từ đầu năm 2010 đến nay giá nhím giống tăng cao lên mức 30-35 triệu đồng/cặp nên nguồn lợi mang về càng lớn hơn. Anh Hùng bảo 10 tháng qua anh chị đã bán gần 30 cặp nhím giống. Đối với nhím giống được bảo hành đảm bảo tới khi chúng sinh sản được, nếu không đẻ, khách hàng có quyền đổi lại đôi khác. Hiện trang trại của anh còn 30 đôi nhím sinh sản, hơn 10 cặp nhím con, con to nhất tới hơn 30kg.

Không chỉ chăn nuôi nhím với mục đích làm giàu cho bản thân, anh Hùng chị Thoa còn tích cực vận động bà con, những hộ gia đình nghèo ở Hoằng Hoá cùng tham gia nuôi nhím. Những hộ gia đình nghèo đến mua giống, không chỉ hỗ trợ giảm giá mà anh Hùng còn rất nhiệt tình truyền đạt kinh nghiệm. Để tiện việc, anh chị hẹn tất cả các khách hàng đến vào một ngày nhất định trong tuần. Vì vậy hàng tuần luôn có một lớp học cho những người muốn tham gia nuôi nhím diễn ra ngay trên trang trại của gia đình anh chị.

Thứ Năm, 3 tháng 10, 2013

Làm giàu từ nông nghiệp

Hai người trẻ, nhờ áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất đã nhanh chóng làm giàu, trở thành những điển hình tiên tiến.

Tỉ phú cây giống…
Chàng trai gốc Quảng trên Tây Nguyên nhanh chóng trở thành tỉ phú khi khởi sự chuyên về các giống cây nghịch mùa.

Tốt nghiệp ĐH Nông lâm TP.HCM năm 1998, Huỳnh Ngọc Tư về nhận công tác tại Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả miền Đông Nam bộ (Bà Rịa - Vũng Tàu). Tại đây, cùng nhiều đồng nghiệp, chàng kỹ sư trẻ quê gốc Quảng Ngãi này trở nên đam mê với công việc nghiên cứu, tuyển chọn, thực nghiệm tác động bằng hóa chất để tạo ra những giống cây ăn quả nghịch mùa (trái vụ) có năng suất cao, chất lượng tốt.

Một lần đi công tác tại Tây Nguyên, Tư mê mẩn trước những vườn cà phê, cao su, cây ăn trái bạt ngàn trên cao nguyên đất đỏ. “Người dân Tây Nguyên rất vững kinh nghiệm làm cà phê nhưng kỹ thuật trồng cây ăn trái thì đi sau các tỉnh Nam bộ. Tuy nhiên, vùng cao nguyên có tiềm năng rất lớn cho cây ăn trái, nhất là các giống nghịch mùa”, Tư nhận định. Liền đó, năm 2005, anh quyết định chuyển công tác tại Sở Khoa học - Công nghệ Đắk Lắk, tham gia chương trình nghiên cứu phát triển chuỗi giá trị bơ trái, một công việc mà anh cho là tạo tiền đề cho những thành công sau này. Cây bơ trái vụ có sức hút rất lạ với Tư. Nhiều năm liền, những ngày nghỉ anh đều tranh thủ cưỡi xe máy đi hàng trăm cây số, lùng sục từng vườn bơ ở các huyện xa của tỉnh Đắk Lắk để ghi chép, tìm hiểu.

Tự anh tìm ra 100 cây bơ nghịch mùa. Sau đó, sàng lọc chọn được 46 cây có đặc tính nổi trội. Tiếp tục nghiên cứu, theo dõi 3 năm liền, Tư “chốt” được 5 cây bơ ưu việt nhất, gồm: 1 cây bơ sớm (ra trái từ tháng 1 - 4 hằng năm), 3 cây bơ muộn (tháng 9 - 12) và 1 cây bơ tứ quý (ra trái quanh năm), mỗi cây có năng suất gần 5 tạ trái/năm. Theo đề xuất của anh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đắk Lắk đã lập Hội đồng khoa học thẩm định và công nhận 5 cây bơ trên có đủ phẩm chất là cây đầu dòng theo ký hiệu từ CĐD.BO.41.01 đến CĐD.BO.41.05. Các giống bơ nghịch mùa này cũng đã được Hội Sở hữu trí tuệ VN công nhận trong Top 100 Sản phẩm vàng thời hội nhập năm 2011 của cả nước.

Để xây dựng thương hiệu cho các giống cây nghịch mùa, anh Tư quyết định thành lập Công ty TNHH một thành viên Đắk Farm do anh làm giám đốc, chuyên sản xuất, cung ứng cây giống cho cả vùng Tây Nguyên. 5 cây bơ giống đầu dòng mà anh dày công tuyển lựa mấy năm trước đã giúp anh khởi nghiệp thành công. Anh Tư cho biết năm 2010, Đắk Farm bán ra thị trường 20.000 cây bơ giống nghịch mùa lai ghép, năm 2011 là 30.000 cây, với giá từ 30.000 - 35.000 đồng/cây. Ngoài cây bơ, vườn giống của anh Tư còn cung ứng 12 giống cây ăn quả khác, phần lớn là cây nghịch mùa; 6 loại cây công nghiệp, 4 loại cây trồng rừng… Năm 2011, doanh thu của vườn giống Đắk Farm hơn 2 tỉ đồng, trong đó một nửa từ các giống bơ.

Anh Tư quan niệm việc kinh doanh của anh sẽ góp phần giúp nông dân thay đổi suy nghĩ trong canh tác nông nghiệp, chú trọng thâm canh các loại cây ăn quả, nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích. “Đến nay, Đắk Farm đã có 70 ha cây bơ liên kết với nông dân do công ty cung cấp giống, hỗ trợ kỹ thuật chăm sóc, theo dõi sinh trưởng; năm 2012 sẽ có thêm 300 ha nữa”, anh Tư cho biết.

và triệu phú con giống
Ứng dụng tri thức, kỹ thuật vào chăn nuôi, Bùi Công Trung tìm ra hướng phát triển cho trang trại con giống gia cầm của gia đình, thu về gần nửa tỉ đồng tiền lãi mỗi năm.
Bùi Công Trung, sinh năm 1986 (thôn Đồng Ăng, xã Kim Long, H.Tam Dương, Vĩnh Phúc) được xếp vào hàng những thanh niên triệu phú ở vùng đất bán sơn địa nằm dưới chân dãy núi Tam Đảo. Không những thế, chàng trai này còn là người thức thời, hiện đại. Ngoài quán xuyến công việc ở trang trại, Trung còn tận dụng, khai thác hiệu quả mạng internet trong tìm tài liệu học tập về chăn nuôi, sử dụng dịch vụ ngân hàng giao dịch tài chính với khách hàng. Thế nên từ nhận đơn đặt hàng, trao đổi với khách đa phần đều thông qua điện thoại và internet.

Thời còn học phổ thông, từ số tiền “bỏ lợn” tiết kiệm, Trung đầu tư nuôi riêng đàn vịt 300 con thương phẩm. Trung phấn khởi nhìn đàn vịt khỏe mạnh, chóng lớn, chờ ngày gặt hái thành quả. Chẳng may biến cố xảy ra, đàn vịt bị bệnh chết hàng loạt. Không cam chịu, Trung lấy mẫu mang đi xét nghiệm tìm nguyên nhân khiến người lớn vừa ngạc nhiên vừa nể phục.

Chàng trai này đã từ chối cơ hội trở thành sinh viên, quyết định ở nhà làm kinh tế gia đình. Học việc chưa được bao lâu, năm 2007, người cha dạn dày kinh nghiệm trong nghề chăn nuôi đột ngột qua đời trong cơn đau tim. Bất đắc dĩ, Trung trở thành trụ cột, lo toan mọi việc trong nhà.

Trung đã vạch ra kế hoạch phát triển trang trại gia đình theo cách riêng của mình. Ngoài số khách hàng truyền thống, Trung tìm cách tiếp thị và mở rộng thị trường tiêu thụ, làm phong phú chủng loại con giống. Năm 2008, nghề chăn nuôi gia cầm phát triển, khách hàng tìm đến Trung ngày một thêm đông, Trung tiếp tục đầu tư lắp thêm hệ thống máy ấp trứng công suất lớn. “Cơi nới” trang trại do cha để lại đến khi hết công suất, Trung mạnh dạn vay vốn, mua thêm mảnh đất rộng hơn 2.000 m2 quy hoạch làm trang trại.

Nhận thấy bản thân không thể “ôm” hết việc mà nhiều hộ gia đình xung quanh vẫn chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún, Trung vận động họ cùng nâng cấp thành trang trại “con” với quy mô vừa và nhỏ. Theo đó, Trung nhận hỗ trợ các hộ từ con giống, thức ăn chăn nuôi đến bao tiêu sản phẩm đầu ra. Bù lại các hộ được chia lãi theo tỷ lệ góp vốn hoặc trả tiền công lao động. Cho đến nay, ngoài 2 trang trại chính, Trung phát triển hệ thống trang trại “con” đến gần 20 hộ gia đình, đảm bảo cung cấp mỗi tháng hàng vạn con giống gia cầm cho người chăn nuôi tại các tỉnh khu vực phía Bắc.

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Đôi vợ chồng trẻ biết vượt khó, làm giàu

Từ đôi bàn tay trắng, đôi vợ chồng trẻ Nguyễn Thanh Tuấn và Đinh Thúy Linh (ấp 5, xã Tân Lập, Tân Uyên) đã vượt khó vươn lên làm giàu.

Chỉ sau 7 năm với nghề chăn nuôi, vợ chồng anh chị đã sở hữu căn nhà mới trị giá hơn tỷ đồng và cơ ngơi mỗi năm thu về 400 - 500 triệu đồng. Từng nghèo khó nên khi có của ăn của để, anh chị dành một phần giúp đỡ người nghèo và hỗ trợ phong trào Đoàn tại địa phương...

Cách đây 7 năm, thu nhập của anh chị chủ yếu nhờ vào số tiền cạo mủ thuê hàng tháng với hơn 1 triệu đồng. Cuộc sống khó khăn, hai vợ chồng tính chuyện chăn nuôi và quyết định bán số vàng cưới để mua gà thả vườn, nhưng mất vốn vì gà chết bệnh. Không vì vậy mà từ bỏ ý chí vươn lên nên anh chị chuyển sang nuôi heo với số tiền 4 triệu đồng vay mượn. Anh Tuấn nói: “Lúc đó, vợ chồng tôi quần quật cả ngày, có lúc không kịp ăn. Khuya thức dậy đi cạo mủ thuê, quay về nhà là tranh thủ cho heo ăn. Cứ thế hai vợ chồng thay phiên nhau chăm sóc heo. Bước đầu chưa có kinh nghiệm nên trong lòng nơm nớp sợ lỗ như nuôi gà”. Từng bước vượt qua khó khăn, học hỏi kinh nghiệm, dần dần anh chị đã gầy dựng được trang trại chăn nuôi cho riêng mình.

Trang trại chăn nuôi của anh Tuấn, chị Linh (ảnh) hiện có gần 400 con heo với hơn 40 heo nái. Kinh nghiệm của anh chị là luôn bảo đảm vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, không để dịch bệnh xảy ra. Bên cạnh đó, anh chị còn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào chăn nuôi, giúp giảm công lao động, mang lại hiệu quả kinh tế cao... Để bà con chăn nuôi ở địa phương thuận lợi mua thức ăn gia súc, anh chị làm đại lý bán thức ăn gia súc và là một trong những đại lý nhiều năm liền vượt chỉ tiêu sản lượng, đạt thành tích cao. Bà con đến mua thức ăn cho heo, anh chị hướng dẫn cách chăm sóc chuồng trại để tránh dịch bệnh xảy ra.

Chịu khó làm ăn nên từ hai bàn tay trắng, anh Tuấn và chị Linh đã vượt khó và vươn lên làm giàu. Chỉ sau 7 năm với nghề chăn nuôi, ở tuổi 31, vợ chồng anh chị Tuấn - Linh đã sở hữu căn nhà mới trị giá hơn tỷ đồng và cơ ngơi làm ăn mỗi năm thu về 400 - 500 triệu đồng. Từng nghèo khó nên khi có tiền, thông qua Hội Chữ thập đỏ anh chị thường xuyên giúp đỡ người nghèo và hỗ trợ cho phong trào Đoàn, hội tại địa phương.