Trang

Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

Bỏ thị thành, kỹ sư về quê nuôi yến lãi to

Năm 2010, tốt nghiệp Đại học Giao thông vận tải TP.Hồ Chí Minh, anh Ngô Thanh Phong (SN 1982, ngụ thôn Vĩnh Xuân, xã Bình Trung, huyện Thăng Bình, Quảng Nam) cần mẫn mưu sinh nơi phố thị với mức lương 13 triệu đồng/tháng. Đó là số tiền thù lao mơ ước của nhiều người, nhưng anh lại chọn con đường quay về quê nuôi heo trên đệm lót sinh học, bồ câu và chim yến.

Anh Phong cho biết: “Nhận thấy chim yến ở quê nhiều lại bay tự do, sau khi tham khảo vài mô hình ở tỉnh lân cận, tháng 10.2012, tôi về quê, vay mượn bà con hơn 400 triệu đồng để xây dựng nhà ở chim yến”.


Mô hình nuôi chim bồ câu trong nhà của anh Phong mang lại lợi nhuận khá cao. Ảnh: D.T

Theo anh Phong, nuôi chim yến rất dễ sinh lãi vì không phải tốn tiền mua chim giống. Tất cả chỉ nhờ vào thiết bị dụ dỗ chim vào nhà và đặc biệt khu nhà dành cho chim phải được chúng ưng ý, chọn làm nơi ẩn nấp an toàn. “Hiện tại, tôi có hơn 300 cặp chim yến, mỗi tháng thu khoảng 4 lạng sản phẩm tổ yến, trừ chi phí mỗi năm tôi thu về khoảng 150 triệu đồng” - anh Phong cho hay.

Quyết tâm làm giàu, anh Phong mở rộng mô hình kinh tế với việc chăn nuôi heo đệm lót sinh học. Mỗi năm anh xuất bán hơn 200 con heo thịt, mức thu nhập 70 triệu đồng mỗi năm. “Nuôi heo đệm lót sinh học rất có lợi cho người nông dân. Ít chi phí nhân công chăm sóc, vệ sinh chuồng trại, vả lại heo phát triển rất nhanh, tránh được bệnh tật do ô nhiễm nơi ở” - anh Phong bộc bạch.

Chưa dừng lại ở chim yến và nuôi heo, tháng 3.2013, anh Phong xây dựng thêm nhà dành riêng cho chim bồ câu. Để có giống, anh đi mua chim bồ câu con khắp nơi trong làng, từ gần 20 cặp đến nay nhà chim bồ câu của anh đã có hơn 100 cặp. Với giá 50.000 đồng/cặp, mỗi tháng anh Phong xuất bán khoảng 70 cặp, thu về thêm hơn 20 triệu đồng/năm.

Tính tổng cộng, mỗi năm từ chuỗi mô hình kinh tế chăn nuôi, anh Phong thu về gần 300 triệu đồng sau khi trừ chi phí.

Thứ Năm, 26 tháng 3, 2015

Bí thư chi Đoàn thu nhập 300 triệu/năm từ nấm

Nhờ những sáng tạo trong việc trồng nấm và mộc nhĩ, cơ sở sản xuất của anh thu lãi hơn 300 triệu đồng/ năm, đồng thời cũng tạo ra việc làm thêm tăng thu nhập cho trên 30 lao động.
Không chỉ năng động trong công tác đoàn, An Nguyễn Đức Tình – bí thư chi đoàn 8, Phường Hiến Nam, thành phố Hưng Yên còn giỏi làm kinh tế. Nhờ những sáng tạo trong việc trồng nấm và mộc nhĩ, cơ sở sản xuất của anh thu lãi hơn 300 triệu đồng/ năm, đồng thời cũng tạo ra việc làm thêm tăng thu nhập cho trên 30 lao động.
“Biến” nấm thành rau sạch
Mới 27 tuổi nhưng anh Tình đã có 4 năm trên cương vị Bí thư chi đoàn và 5 năm kinh nghiệm phát triển mô hình trồng nấm sò và mộc nhĩ sạch. Anh tâm sự: “Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, tôi có đi học nghề như bạn bè nhưng thấy học xong mình cũng chỉ là người đi làm thuê tối mặt tối mũi với đồng lương không cao. Tôi muốn tự mình lựa chọn hướng đi mới không giống những người khác để có thể làm giàu. Sau khi tìm hiểu, học hỏi từ mọi nơi, tôi đã quyết định trồng nấm”.
 Bí thư chi Đoàn thu nhập 300 triệu/năm từ nấm - 1
Nguyễn Đức Tình - chàng thanh niên làm giàu từ nấm

Năm 2010, anh Tình nung nấu ý tưởng làm giàu bằng nấm, muốn biến nấm thành một loại rau sạch được bày bán thông dụng trên thị trường. Anh cất công lặn lội đến các cơ sở nấm tại thị trấn Phùng (Đan Phượng, Hà Nội). Anh xin vào học trồng nấm và bắt tay làm vào việc để tích lũy kinh nghiệm và kiến thức từ thực tế khi trồng nấm.
Ròng rã hơn 2 tháng nghiêm túc tìm hiểu về quy trình trồng và sản xuất nấm, anh Tình trở về quê, tận dụng hơn 1000m2 nhà xưởng làm đồ hộp của gia đình để phát triển cơ sở sản xuất nấm và mộc nhĩ. Với số vốn ít ỏi do người thân hỗ trợ, anh đã thử nghiệm trồng hơn 1000 bịch nấm sò và mộc nhĩ.
Bằng những sáng tạo của riêng mình, anh Tình đã phát triển mô hình trồng nấm và mộc nhĩ ngoài trời. Đặc biệt, anh biết cách tận dụng nguồn nguyên liệu ngay tại địa phương để trồng nấm sò cho hiệu quả cao.
Anh cho biết: “Sau mỗi mùa gặt lúa, người dân quê tôi thường chất rơm thành từng đống đốt làm khói ngút trời, thậm chí rơm bị vứt ra đường vừa làm mất mỹ quan của phố lại có thể dẫn đến các tai nạn giao thông. Bởi vậy tôi đã nghĩ đến việc tận dụng nguyên liệu thừa này. Tôi đi thu lượm rơm của bà con rồi mang về dự trữ để dự trữ trồng nấm sò”.
Trồng mộc nhĩ chủ yếu bằng mùn cưa nên anh tìm đến các xưởng làm mộc lớn tại Bắc Ninh, Bắc Giang để thu mua mùn cưa đem về xử lý và đóng gói rồi đưa ra nơi nuôi trồng. Anh Tình cho hay:“Trong quá trình thu hoạch, tôi lấy cả rễ mộc nhĩ để mộc nhĩ không bị mốc trong quá trình phơi khô. Mộc nhĩ khi được phơi tự nhiên vừa giữ được màu sắc và đảm bảo chất lượng ngon, sạch vừa bớt được nhiều chi phí hơn nếu phải đưa vào lò sấy”.
 Bí thư chi Đoàn thu nhập 300 triệu/năm từ nấm - 2
Anh Tình đã kết hợp thí nghiệm trồng nấm sò bằng rơm kết hợp với lượng mùn thải ra từ việc trồng mộc nhĩ cho hiệu quả cao

Qua nuôi trồng, anh Tình đã thử làm thí nghiệm để trồng nấm sò bằng rơm kết hợp với lượng mùn thải ra từ trồng mộc nhĩ. “Kết quả bất ngờ là khi trồng nấm sò bằng phương pháp này còn cho ra năng suất cao hơn và giảm được thời gian cũng như chi phí chuẩn bị nguyên liệu nuôi trồng” – Anh Tình cho biết.
Thu lãi 300 triệu đồng mỗi năm
Dẫn khách đi tham quan cơ sở trồng nấm, anh Tình vui vẻ cho hay, việc trồng nấm sò, mộc nhĩ mang lại hiệu quả kinh tế cao, kỹ thuật trồng lại không hề khó như mọi người suy nghĩ, vốn đầu tư ít và cũng không mất quá nhiều thời gian chăm sóc.
“Tôi nhận thấy đây là một sản phẩm rau sạch, giá cả ổn định, không lo mất mùa, thị trường tiêu thụ khá tốt, đặc biệt vào dịp Tết còn cháy hàng. Với thành công bước đầu từ mô hình trồng nấm khép kín lớn nhất của Hưng Yên, sắp tới tôi sẽ tiếp tục mở rộng thêm cơ sở sản xuất và nhân rộng hơn cho bà con địa phương phát triển mô hình kinh tế hiệu quả này”, anh chia sẻ.
Sau hơn 5 năm gắn bó với nghề trồng nấm, đến nay, cơ sở sản xuất của anh Tình có diện tích xưởng chế biến và nuôi trồng khoảng 8000m2. Mỗi vụ (3-6 tháng) anh trồng được hơn 20 vạn bịch nấm các loại trong đó nhiều nhất là nấm sò và mộc nhĩ, cho thu sản lượng là gần 2 -3 tạ mộc nhĩ/ngày và 20 tạ nấm/vụ.
Giá bán buôn các loại nấm như: mộc nhĩ khô 140 ngàn đồng/kg, nấm sò tươi 35 ngàn đồng/kg; nấm sò khô 350 ngàn đồng/kg; nấm linh chi 600 ngàn đồng/kg. Sau khi trừ đi mọi chi phí, anh Tình thu lãi đến hơn 300 triệu đồng từ nấm.
 Bí thư chi Đoàn thu nhập 300 triệu/năm từ nấm - 3
Nấm sò được trồng tại cơ sở nuôi trồng của anh Tình 

Với sản lượng thu hoạch được từ diện tích nuôi trồng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu và sức tiêu thụ lớn của thị trường trong tỉnh cũng như các vùng lân cận như: Hà Nội, Hải Phòng.
Không chỉ trồng nấm để bán ra ngoài thị trường, anh Tình còn cấy giống các loại nấm để bán sang các tỉnh lân cận và bán cho những đoàn viên trong tỉnh có ý định phát triển mô hình nấm làm giàu.
Anh Tình chia sẻ: “Việc trồng nấm không hề khó, người dân có thể tận dụng các khoảng trống ở ruộng vườn là có thể nuôi trồng nấm. Cơ sở sẽ giúp bà con ươm sẵn nấm trong các bịch, hướng dẫn tận tình về kỹ thuật chăm sóc, thu hoạch và cách phòng chống sâu bệnh cho nấm đạt hiệu quả cao. Sản phẩm sau đó sẽ được giúp tiêu thụ ra thị trường”.
Cơ sở sản xuất của anh Tình hiện tại còn tạo việc làm cho trên 30 lao động với mức lương trung bình 3 – 4 triệu đồng/tháng. Vào mùa thu hoạch nấm, số lao động còn lên đến hơn 50 người.
Ngoài việc sáng tạo làm giàu, anh Nguyễn Đức Tình còn là một cán bộ đoàn năng nổ và nhiệt tình. Anh sắp xếp thời gian vừa tăng gia sản xuất vừa tham gia đóng góp hết mình cho việc tổ chức các phong trào tại địa phương và của Thành đoàn Hưng Yên.
Năm 2013, anh Tình vinh dự được nhận Bằng khen của Tỉnh đoàn về “mô hình sản xuất kinh doanh tiêu biểu”, bằng khen của Thanh niên tiên tiến làm theo lời Bác cụm đồng bằng sông Hồng.

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015

Thu hàng trăm triệu nhờ dàn "vũ công" tuyệt đẹp

Với trang trại rộng hàng trăm m2, nhiều năm nay ông Khởi đã nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc nhờ sở hữu dàn “vũ công” có một không hai, thu về mỗi năm hàng trăm triệu đồng

“Để nuôi được chim công đã khó, nhưng luyện làm sao cho công múa đẹp còn khó hơn. Nhưng với tôi, bằng kinh nghiệm sẵn có và lòng yêu nghề, yêu chim thì điều đó khá dễ dàng, không có gì khó cả mà chỉ cần vào chuồng ra hiệu là chim múa theo ý muốn ngay” - ông Nguyễn Hữu Khởi, một triệu phú nuôi chim công lừng danh ở thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du (Bắc Ninh) chia sẻ.


Với trang trại rộng hàng trăm m2 ở một vùng đất nghèo như xã Việt Đoàn, nhiều năm nay ông Khởi đã nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc nhờ sở hữu dàn “vũ công” có một không hai, thu về mỗi năm hàng trăm triệu đồng.

 

Trang trại nuôi công có diện tích trên 500m2 và ngôi nhà 2 tầng xây được nhờ nghề kinh doanh “công múa”.

 

Đang nuôi gần 50 công bố, mẹ, ông Khởi cho biết, để nuôi được chim công, trước nhất phải coi chim như bạn, chăm sóc chim cũng như chăm sóc mình vậy, luôn phải ân cần, nhẹ nhàng và thêm đức tính kiên trì thì mới luyện được chim múa theo ý muốn.
 

Muốn luyện được chim múa, các chủ nuôi phải luyện cho chim quen người trước, sau đó mới dạy múa dần, ví như múa xòe đuôi là cơ bản nhất, chỉ cần người nuôi chú ý tạo không gian chuồng rộng, thoáng, để ánh nắng chiếu vào chim mới có hứng múa. Còn muốn chim múa cả chân kết hợp với đuôi thì người chủ phải thường xuyên vào chuồng nhảy, chơi cùng thì chim mới quen và nhảy theo được...
 

Để luyện được công múa, ông Khởi luôn phải thường xuyên vuốt ve cho lông chim mướt, sạch để giữ màu sắc rực rỡ và tạo sự thân thiện, gần gũi với chim.
 

Một chú công đực đã được nhiều khách trả giá hàng chục triệu đồng nhưng ông Khởi chưa muốn bán

 

Chuồng nuôi trong trang trại được thiết kế với nhiều cành cây cao để chim công đậu, bay nhảy giữ gìn vóc dáng.




Đàn công luôn được hai vợ chồng ông Khởi chăm sóc, cho ăn và dọn dẹp vệ sinh thường xuyên, tạo môi trường, không gian sạch để công múa




Các “vũ công” giống đã được khách từ trong Tây Nguyên đặt hàng trên 3 triệu đồng











Các “vũ công” được ông Khởi luyện chuyên nghiệp đang hăng say nhảy, múa trong trang trại.

Thứ Ba, 24 tháng 3, 2015

U70 kiếm hàng trăm triệu mỗi năm nhờ nuôi ong

Ở tuổi 65 nhưng ông Hồ Hữu Tài (xóm Phú Tân, xã Tây Hiếu, thị xã Thái Hòa, Nghệ An) vẫn kiếm được hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ gắn bó với nghề nuôi ong lấy mật.

Ông Tài kể: “Năm 1990, trong một lần vào rừng, tình cờ phát hiện bọng ong mật nặng khoảng 2kg, tôi nảy ý tưởng thuần hóa chúng mang về nhà nuôi...”.

 

Ông Tài kiểm tra sức khỏe đàn ong.

Từ đó, ông Tài bén duyên với nghề nuôi ong. Lúc đầu chưa có kinh nghiệm, ông chỉ dám nuôi vài đàn. Thấy nuôi ong đầu tư ít mà cho hiệu quả cao nên dần dần gia đình ông nhân lên 20 đàn rồi 40 đàn, có thời gian cao điểm được hơn 70 đàn ong. Theo ông Tài, nghề nuôi ong vừa dễ lại vừa khó. Dễ bởi công việc này không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, không vất vả như các công việc chân tay khác và ai cũng có thể làm được. Nuôi ong không tốn nhiều thời gian chăm sóc nhưng lại đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận và cần mẫn. Ông bảo nuôi ong như chăm con thơ. Chỉ cần vài ngày không theo dõi là có thể ong đã bị bệnh hoặc bỏ đi.

Hơn 25 năm gắn bó, dành nhiều tình cảm và tâm huyết với nghề, ông Tài hiểu rõ “tính nết” đàn ong và có các biện pháp thích hợp trong việc chống rét, chống nóng, vệ sinh thùng cũng như trợ giúp để đàn ong vượt qua thời gian hoa không rộ. Mỗi năm, gia đình ông thu về trên dưới 200 lít mật các loại và xuất bán 40 đàn ong giống. Thu nhập từ bán mật và ong giống của gia đình mỗi năm đạt trên 100 triệu đồng. Cơ sở bán mật ong và con giống của gia đình ông đã trở thành địa chỉ tin cậy của nhiều khách hàng gần xa đến chia sẻ kinh nghiệm và học hỏi nghề. Nhờ nuôi ong mật, kinh tế gia đình ông cũng khá lên, có điều kiện nuôi dạy con cái trưởng thành.

Không chỉ làm kinh tế giỏi, ông còn tích cực tham gia các phong trào, hoạt động của Hội ND. Ông luôn tận tình hướng dẫn các hội viên ND kỹ thuật nuôi ong đạt hiệu quả kinh tế cao.

Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2015

Chăn nuôi thay trồng lúa, lãi hàng trăm triệu mỗi năm

Từ diện nghèo nhất nhì xã, anh Phạm Văn Tiệp (38 tuổi, ở thôn 2, xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, Thái Bình) hiện đã có trong tay trang trại nuôi cá-lợn-gà thu lãi mỗi năm 200 triệu đồng.

Trò chuyện với chúng tôi trong ngôi nhà mới xây khang trang, anh Phạm Văn Tiệp nhớ lại những ngày đầu khởi nghiệp đầy gian khó: “Trước đây gia đình tôi thuộc diện nghèo nhất nhì xã. Năm 2007, UBND xã Vũ Đoài có chủ trương vận động nông dân dồn điền đổi thửa, tôi mạnh dạn dồn đổi 2,7 mẫu lúa sang phát triển kinh tế theo hướng trang trại, đào ao thả cá, chăn nuôi lợn gà”.

Sau 6 tháng trời đánh vật với đất và nước, cơ sở mới của vợ chồng anh Tiệp dần hình thành với 2 ao nuôi cá và chuồng nuôi lợn, gà.

 

Anh Phạm Văn Tiệp chăm sóc đàn gà của gia đình. T.H

Có được 2 ao cá với tổng diện tích 4.680m2 mặt nước, gia đình anh đầu tư chăm sóc và phòng bệnh cho cá. Nhờ chịu khó học hỏi kinh nghiệm, tham gia các lớp tập huấn tại địa phương, đọc sách báo về nuôi trồng thủy sản với phương thức nuôi xen ghép nhiều loại cá trắm cỏ, trôi, chép để tận dụng nhiều tầng mặt nước và thực hiện phương thức đánh tỉa thả bù nên cá chóng lớn. Sau khi trừ chi phí, 2 ao cá cho thu nhập khoảng 40 – 50 triệu đồng/năm.Tuy nhiên, sau khi tham quan các trại ương cá giống ở trong và ngoài tỉnh như Nam Định, Hải Dương, anh Tiệp thấy làm cá giống có thu nhập cao hơn hẳn so với cá thịt. Anh Tiệp bèn tìm tòi học hỏi kinh nghiệm và đầu tư nuôi cá giống theo hình thức luân canh. Mỗi năm, anh xuất bán hàng chục tấn cá giống, thu về hơn 100 triệu đồng, sau khi đã trừ chi phí.

Không chỉ nuôi cá giỏi, anh Tiệp còn rất mát tay trong chăn nuôi lợn và gà ta thả. “Nhờ chăn nuôi lợn gà, gia đình không chỉ có thêm khoản lãi 100 triệu đồng/năm mà còn tận dụng được chất thải của đàn lợn, gà làm thức ăn cho cá” – anh Tiệp chia sẻ thêm.

Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2015

Cử nhân công nghệ về quê nuôi thỏ New Zealand

Sau khi tốt nghiệp cử nhân công nghệ thông tin, anh Trần Văn Quý (phường Vĩnh Hòa, TP.Nha Trang) đã trải qua 5 năm làm việc tại TP.Hồ Chí Minh với mức thu nhập trên 7 triệu đồng/tháng. Mọi chi phí ăn uống, sinh hoạt, thuê trọ ở đây rất cao nên lương chỉ đủ đáp ứng chi phí hàng ngày. Cuối cùng, anh chàng cử nhân quyết định bỏ lại thành phố phồn hoa năng động để về Nha Trang làm… nông dân.

Vào năm 2012, anh Quý mua giống thỏ lai về thả nuôi. Dù chúng ăn nhiều, nhưng sức đề kháng còn hạn chế nên rất chậm lớn. Anh đành bán tháo để thu hồi vốn. Nhưng niềm yêu thích nghề nuôi thỏ chưa nguôi, khi nghe người thân mách bảo có giống thỏ New Zealand nuôi đang có hiệu quả, anh đã tích cực tìm hiểu.

 

Anh Qúy chăm sóc đàn thỏ. 

Đến đầu năm 2014, anh nhờ người thân ở tỉnh Ninh Bình liên hệ mua 50 con thỏ giống trọng lượng 2kg/con, giá mua giống 200.000 đồng/kg. Lượng thỏ giống mới vừa đem về Nha Trang đã có người mua lại 20 con. Anh còn lại 30 con (trong đó có 2 con đực và 28 con cái giống). Hiện tại, anh đã có 2 trại chăn nuôi tại xã Diên Lạc (huyện Diên Khánh) và phường Vĩnh Hòa (Nha Trang) với số lượng gần 100 thỏ giống. Riêng trại chăn nuôi tại Vĩnh Hòa, bình quân mỗi tháng anh cung cấp cho thị trường 50 – 100kg thịt thỏ, giá bán từ 80.000 – 95.000 đồng/kg. Sau khi trừ chi phí, anh có thu nhập hơn 5 triệu đồng/tháng, tháng cao điểm, anh thu nhập gần 10 triệu đồng. Với số thỏ nuôi tại xã Diên Lạc, theo tính toán của anh, năm 2015 sẽ cho thu nhập thêm trên 10 triệu đồng/tháng sau khi trừ chi phí.

Anh Quý cho biết, thỏ New Zealand cho tăng trưởng nhanh hơn so với giống thỏ lai. Từ khi thỏ con được đẻ ra đến khi xuất chuồng khoảng 3 tháng, thị trường đang ưa chuộng thỏ thịt và thỏ giống. Anh chủ yếu tận dụng các phế phẩm của nông nghiệp như củ sắn, bã đậu và các loại rau để nuôi chúng. Trung bình mỗi thỏ cái giống sinh sản từ 8–9 đợt/năm, 7-8 con/đợt, khả năng kháng bệnh của thỏ khá cao, nên rủi ro thấp. Chàng cử nhân – nông dân 31 tuổi này dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng quy mô trại nuôi thỏ trong thời gian tới.

Thứ Tư, 18 tháng 3, 2015

Chàng trai Ninh Bình thu nhập 12 tỷ/năm từ cơm cháy

Sự sáng tạo từ miếng cơm cháy đã giúp anh trở thành tỷ phú nơi quê nghèo.

Ninh Bình được biết đến với đặc sản cơm cháy từ lâu năm, thế nhưng không phải ai cũng biết người phát triển nó. Người đã đưa cơm cháy Ninh Bình có mặt trên “sạp hàng” khắp cả nước là chàng thanh niên Bùi Văn Mạnh (sinh năm 1987, thôn Đại Hòa, xã Xích Thổ, huyện Nho Quan, Ninh Bình).

Tỷ phú vùng quê nghèo

Dáng người nhỏ nhắn, gương mặt thư sinh khiến người mới nhìn đều lầm tưởng anh Mạnh chỉ mới đôi mươi. Là ông chủ trẻ của cơ sở sản xuất cơm cháy nổi tiếng khắp cả nước, anh Mạnh khiến bao người nể phục bởi sự mạnh bạo, dám nghĩ dám làm trong công việc.


 
Miếng cơm cháy đã giúp anh Bùi Văn Mạnh trở thành tỷ phú nơi quê nghèo

Cơm cháy là đặc sản nổi tiếng của tỉnh Ninh Bình ra đời từ thế kỷ 19. Đến năm 2000, mặt hàng này được sản xuất tại một số cơ sở nhỏ và quy mô không vượt quá tầm địa phương. Cho đến khi chàng thanh niên huyện Nho Quan bắt tay vào làm thì cơm cháy mới trở thành đặc sản nổi tiếng, mang thương hiệu Ninh Bình.

Anh Bùi Văn Mạnh xây dựng thương hiệu sản xuất cơm cháy trong suốt 6 năm nay. Với tổng diện tích 2700m2, cùng hệ thống dây chuyền máy móc, nhân lực, mỗi ngày cơ sở của anh Mạnh sản xuất được hơn 1 tấn cơm cháy.

Sản phẩm của anh được phân phối tới khắp 20 tỉnh thành trên cả nước từ các tỉnh thành phía Bắc cho đến miền trung như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An… Chúng có mặt trên cả những sạp hàng nhỏ đến siêu thị lớn. Cơ sở sản xuất của anh Mạnh đạt doanh thu 12 tỷ đồng/năm.

Cơ sở sản xuất của anh tạo công ăn việc làm với mức thu nhập khá cho hơn 20 nhân công, là những người dân tại địa phương. Đời sống của họ được cải thiện hơn nhiều so với việc chỉ trông chờ vào cây lúa.

 

"Cơm cháy quan trọng nhất là độ giòn và xốp, nếu không sấy trước khi chiên thì cơm cháy không nở được đều", anh Mạnh cho biết

Mô hình sản xuất cơm cháy của anh Mạnh được sở Y tế, sở Nông nghiệp, sở Khoa học và Công nghệ cấp chứng chỉ an toàn, thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân trên khắp vùng miền. Cách làm của anh Mạnh còn tạo động lực cho tầng lớp thanh niên trẻ muốn làm giàu.

Có quyết tâm là có thành công
Tốt nghiệp phổ thông, anh Mạnh tiếp tục học tập tại tỉnh Ninh Bình. Một lần đi ăn cơm nhà hàng, anh Mạnh tình cờ được thưởng thức và có ấn tượng sâu sắc với món cơm cháy, thịt dê.

Cũng có lần anh bắt gặp cảnh khách hàng yêu cầu chủ nhà hàng gói xuất cơm cháy mang về nhưng bị từ chối bởi cơm cháy chỉ có thể ăn nóng, còn nếu mang về thì không còn ngon như ban đầu.

Nhìn ra được tiềm năng và hạn chế của món cơm cháy, anh Mạnh đã bàn với bố học cách làm và mở xưởng sản xuất. Tuy bố còn băn khoăn, lo lắng, phân vân nhưng anh Mạnh thì đã quyết tâm thì phải làm cho bằng được.

Tận dụng thế mạnh của vùng đất Ninh Bình có nhiều danh lam thắng cảnh, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước, nắm được tâm lý của khách quan du lịch muốn có quà mang về mỗi khi đặt chân đến một vùng đất nào đó, anh Mạnh càng tự tin hơn và quyết định của mình.


 

Công nhân đang gấp rút đóng gói cơm cháy để giao hàng tới cơ sở

Hơn nữa, ở Ninh Bình bấy giờ, cơm cháy chưa được tạo thành sản phẩm đóng gói nên nếu làm được việc này thì ước mơ của anh sẽ nhiều phần thành công.

“Nhìn thấy tiềm năng của thị trường và tin tưởng vào khả năng của sản phẩm, mình đã quyết tâm phải làm ra cơm cháy bằng mọi giá” - anh Bùi Văn Mạnh chia sẻ.

Vừa làm vừa mày mò nghiên cứu, những mảng cơm cháy đầu tiên được anh Mạnh tạo ra bằng cách thủ công.

Anh Mạnh chia sẻ: “Tôi đổ gạo nếp vào nồi nấu xôi nhỏ dùng cho hộ gia đình, sau đó lấy ra một chiếc khay gỗ cán mỏng bằng thân chai rồi đem phơi nắng trên mái nhà. Cơm cháy làm ra ngon nhưng ại phải phụ thuộc vào thời tiết, nắng ráo không sao chứ mưa ẩm thì coi như xôi hỏng bỏng không”.

Vậy là anh Mạnh dày tâm nghiên cứu, sáng tạo ra cách sản xuất mới vừa chủ động vừa hiệu quả. Giờ đây, anh đã có một cơ sở sản xuất khang trang với nhiều lò sấy đạt công suất 600kg/ngày.

Những sản phẩm cơm cháy đóng gói đầu tiên, anh Mạnh hăm hở mang đi chào hàng tại các điểm du lịch gần nhà. Thật bất ngờ, sau khi ăn thử khách rất ưng ý, sản phẩm tiêu thụ rất nhanh. Anh biết mình đã thành công.

Ông Bùi Tuấn Vương (Phó bí thư Đảng ủy xã Xích Thổ, huyện Nho Quan, Ninh Bình) cho biết: “Một địa phương có điểm xuất phát khá thấp như tỉnh Ninh Bình mà có những thanh niên mạnh dạn, giám nghĩ giám làm như anh Mạnh thật sự đáng quý. Mô hình của anh Bùi Văn Mạnh mang lại những tín hiệu rất tích cực”.

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Nữ nông dân trồng nấm lỗ "te tua", vẫn "bám" nấm

Khởi nghiệp từ gần 10 năm trước với những tai nấm mèo, nấm bào ngư và cả nấm linh chi, đến nay, chị Lê Hà Mộng Ngọc (ấp Phú Bình, xã Phú Hòa Đông, Củ Chi, TP.HCM) đã khẳng định được tên tuổi trong việc sản xuất, kinh doanh nấm.

Không chỉ sản xuất, kinh doanh nấm, chị Ngọc còn là người “đỡ đầu” cho hơn 100 nông dân sản xuất nấm ở cả 2 miền Nam- Bắc.

Tai nấm khởi nghiệp


Dù là nhân viên xuất sắc nhiều năm liền của một doanh nghiệp bất động sản có tiếng ở TP.HCM, chị Ngọc vẫn ngày đêm trăn trở về một “sự nghiệp riêng”. Năm 2007, cùng với 3 người bạn thân, nhiều kế hoạch “lập nghiệp” đã được chị Ngọc đưa ra, đặt lên bàn cân và... đong đếm.

 

Chị Ngọc rạng rỡ với những tai nấm linh chi sắp tới tuổi thu hoạch. Khải Huyền

Chị Ngọc chia sẻ, sau nhiều năm lăn lộn trên thương trường, mong muốn mãnh liệt của bản thân lúc bấy giờ là được làm nông nghiệp, một hình thức sản xuất nông nghiệp bền vững, có thể xây dựng được chuỗi giá trị khép kín. “Lúc đó, 4 chị em đã đưa ra nhiều sản phẩm nông nghiệp để chọn lựa, trong đó có cả mô hình nuôi heo, nuôi gà, trồng rau, trồng hoa... Cuối cùng, sau khi tìm hiểu nhu cầu thị trường, điều kiện sản xuất tại địa phương, cả nhóm chọn sản xuất nấm sạch” - chị Ngọc kể lại.

Sau khi chọn sản phẩm, chị Ngọc cùng những người bạn khăn gói lên thành phố để học nghề. Học trên lý thuyết thấy dễ, mấy chị em hào hứng về Củ Chi bắt tay vào trồng nấm. Ban đầu, cả nhóm đầu tư 10 khu nhà để trồng nấm bào ngư xám. Tưởng dễ, thế nhưng, những trại nấm đầu tiên không cho kết quả như mong muốn. “Nếu những nông dân khác chỉ cần 2 tháng từ khi cấy giống đã cho thu hoạch thì trại nấm của chúng tôi, đến 6 tháng sau, cả ngàn bịch phôi vẫn chưa cho nấm. Do thiếu kinh nghiệm, tôi cũng không biết phải rạch bịch thì mới có chỗ cho nấm phát triển” -chị Ngọc tiếp lời.

Chưa hết, lần đầu làm nông nghiệp, vốn ít, lại thiếu kinh nghiệm, nhóm chị Ngọc đầu tư làm nhà trồng bằng tre nứa. Do đó, chỉ sau một thời gian, những nhà trồng này bị mối, mọt phá hoại, hư hỏng nặng.

Lỗ te tua, vẫn “bám” nấm

Sau 6 tháng chờ đợi mỏi mòn, lứa nấm đầu tiên thu hoạch được, chị Ngọc lại rơi vào tình cảnh bí đầu ra. Mang từng giỏ nấm ra chợ Bình Điền bán, chị Ngọc được trả giá 10.000 đồng/kg, trong khi giá thành sản xuất đã là 25.000 đồng/kg. Quyết tâm không bán rẻ sức lao động, chị Ngọc giữ nấm lại, phơi khô, chờ giá lên. Cứ 10 tấn nấm tươi được 1 tấn nấm khô. Thế nhưng, éo le hơn là bỏ công phơi sấy, bảo quản nhưng tới khi bán, tính ra chỉ được giá 8.000 đồng/kg nấm tươi. Lỗ te tua!

Nhớ lại thời kỳ đó, chị Ngọc chia sẻ: “Lỗ cứ lỗ, làm tôi cứ làm, với tiêu chí phải sản xuất nấm sạch, tuyệt đối không sử dụng thuốc tăng trưởng, thuốc trừ sâu hay phân hóa học, tôi mang sản phẩm đi tiếp thị ở các siêu thị. Ngay trong năm 2009, do đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm và các yêu cầu khác, Co.opMart chấp nhận phân phối sản phẩm của trang trại. Dần dần cũng giải quyết được bài toán đầu ra cho sản phẩm”.

Đến năm 2011, khi đã nắm được những kỹ thuật cơ bản trong việc trồng các loại nấm bào ngư, nấm mèo và cả nấm linh chi, chị Ngọc nghĩ tới việc xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm nấm sạch, từ phôi giống đến xây dựng thương hiệu, phân phối ra thị trường.

Những đơn đặt hàng cũng ngày càng nhiều, sản lượng nấm tại trang trại không đủ cung cấp ra thị trường, chị Ngọc thành lập Hợp tác xã Sản xuất, thương mại Nấm Việt với sự góp mặt của hơn 100 xã viên tại các tỉnh, thành như TP.HCM, Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, lên Lâm Đồng, ra tận Vĩnh Phúc...

Thời điểm này, Khu nông nghiệp công nghệ cao của TP.HCM tại xã Phạm Văn Cội (huyện Củ Chi) cũng đang vào giai đoạn hoàn thành, đi vào hoạt động. Chị Ngọc lại mong ước được bước “một chân” vào bên trong, học hỏi kiến thức mới. Qua tìm hiểu, chị kết nối được với Trung tâm Ươm tạo doanh nghiệp nông nghiệp (thuộc Khu nông nghiệp công nghệ cao TP.HCM). Được hỗ trợ thêm các kiến thức về nông nghiệp bền vững, cách điều hành, quản trị doanh nghiệp cho người mới khởi nghiệp, chị Ngọc thành lập Công ty cổ phần Sinh học Nấm Việt.

Cũng tại Khu nông nghiệp công nghệ cao, chị Ngọc bắt đầu đảm nhiệm việc lai tạo phôi nấm, đảm bảo nguồn giống sạch bệnh cung cấp cho trang trại cũng như những nông dân liên kết sản xuất với Nấm Việt.

Giấc mơ nấm Việt ngang tầm quốc tế

Cuối năm 2012, sau khi đã giải quyết được một phần chuỗi giá trị sản xuất, từ phôi giống, vùng nguyên liệu cho đến thị trường tiêu thụ của Nấm Việt tại thị trường trong nước, chị Ngọc bắt đầu nghĩ tới việc xuất khẩu nấm.

“Mình bắt đầu để ý đến các hội chợ, triển lãm về nông nghiệp, tuy vậy, do không có nhiều chi phí nên mình chỉ tham gia được các hội chợ có hỗ trợ một phần kinh phí. Và một hội chợ giao lưu thương mại tại Lào đã giúp mình mở ra một số thị trường vùng Đông Nam Á” - chị Ngọc kể lại.

Lần đó, chị Ngọc đưa được các sản phẩm nấm linh chi sang Lào, Thái Lan và Campuchia. Sản phẩm của Nấm Việt tiêu thụ rất tốt ở những thị trường này. Đến giữa năm 2013, các đoàn tham quan của Nhật bắt đầu quan tâm, để ý đến Nấm Việt. “Người Nhật rất thích nấm hương, nhưng nhất quyết phải đảm bảo các yêu cầu về sản xuất sạch. Nếu mở ra được thị trường Nhật, Nấm Việt sẽ dễ dàng chinh phục các thị trường khác” - chị Ngọc phân tích.

Mới đây, một doanh nghiệp Nhật đặt vấn đề nhập khẩu 4 tấn nấm mèo mỗi tháng và 8 tấn nấm hương, thế nhưng thấy “nội lực” chưa đủ, chị Ngọc đành hẹn khách thời gian tới. Không dừng lại ở việc sản xuất, tiêu thụ nấm tươi, chị Ngọc cũng một mình mày mò, tìm hiểu cách chế biến nấm thành thực phẩm ăn liền, qua đó, gia tăng giá trị cho sản phẩm.

Gần đây nhất, trong dịp cùng đoàn nông dân TP.HCM sang Hàn Quốc học tập kinh nghiệm làm nông, chị Ngọc đặt mục tiêu sẽ hoàn thiện chuỗi giá trị nấm sạch bằng các sản phẩm chế biến sâu. Cụ thể, đã có 12 sản phẩm nấm chế biến được chị thực hiện, kiểm tra chất lượng, đưa ra lấy ý kiến người tiêu dùng, thiết kế bao bì... gồm nấm bào ngư rim, nấm mèo chiên giòn, kim chi nấm bào ngư, dòng nấm dành cho trẻ em và các sản phẩm thực phẩm chức năng từ nấm linh chi... Hiện tại, Nấm Việt đang lên kế hoạch xây dựng khu nhà chế biến nấm sau thu hoạch với kinh phí 400 – 500 triệu đồng, theo tiêu chuẩn đưa ra của các nhà nhập khẩu Nhật Bản.

Sau nhiều năm gắn bó, thăng trầm với cây nấm, năm 2014, Nấm Việt đã đạt danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao. Doanh thu của HTX Nấm Việt hiện ở mức hơn 2 tỷ đồng mỗi năm, mang lại thu nhập ổn định cho hơn 100 xã viên trồng nấm khắp cả nước.

Thứ Hai, 16 tháng 3, 2015

Lãi gần 1 tỷ đồng/năm nhờ trồng hoa ly

Mấy năm gần đây, thu nhập của người dân ở xã Song Phượng, huyện Đan Phượng (Hà Nội) đã có bước chuyển rõ rệt. Một trong những người có công đầu làm nên sự chuyển biến đó là anh Bùi Tuấn Hải (35 tuổi) ở thôn Tháp Thượng- người giờ đây đã trở thành tỷ phú nhờ trồng hoa ly.

Thành tỷ phú nhờ hoa ly

Tìm đến thăm nhà vườn trồng hoa ly của anh Hải vào những ngày đầu xuân, dù trời rét, mưa phùn liên miên, anh Hải vẫn cặm cụi ngoài vường chăm sóc từng bông hoa ly. Thong thả dẫn chúng tôi đi thăm quan nhà vườn, anh Hải kể, năm 2010, có người cháu bắt được mối quen với một chủ hoa người Đà Lạt. “Khi đó, họ đặt vấn đề muốn tôi cùng đầu tư vào một dự án trồng hoa ly với mức vốn tham gia khoảng 500 triệu đồng. Tôi nghe thấy cũng phải giật mình, nhưng sau một vài ngày suy nghĩ, bàn với vợ, tôi đã quyết định làm liều đi vay lãi ngân hàng để tham gia dự án”- anh Hải nói.

 

Anh Hải kiểm tra chất lượng hoa ly lứa muộn để chuẩn bị xuất bán tại nhà vườn của gia đình ở xã Song Phượng, huyện Đan Phượng (Hà Nội).


Ngay sau đó, anh đã đầu tư thuê đất ở huyện Thạch Thất trồng 3 mẫu hoa ly, thu hoạch bán vào đúng tết nên đã có lợi nhuận “khủng”. Sau khi trừ mọi chi phí đầu tư, trả cả vốn, lãi cho ngân hàng, gia đình anh vẫn còn được chia lãi trên 200 triệu đồng.

Sang năm 2011, sẵn kiến thức và kỹ thuật học được, anh Hải cùng với một người cháu của mình đã quyết định tách riêng để đầu tư trồng hoa ly với mức vốn ban đầu hơn 1 tỷ đồng. Nhưng vụ đầu, do thời tiết thất thường, cộng với kinh nghiệm còn non nên anh mua phải giống kém chất lượng. Điều đó đã khiến cho 2 người chịu lỗ nặng nề, mất hơn 500 triệu tiền vốn.

“Rút kinh nghiệm từ thất bại, bước vào năm 2012, nhờ làm cẩn thận, đầu tư công sức nhiều vào hoa, cả năm 2 chú cháu lãi được gần 1 tỷ đồng”- anh Hải phấn khởi khoe.

Góp phần thay đổi bộ mặt quê hương

Khi số vốn đã hòm hòm, anh Hải đã tách hẳn ra làm một mình. Anh đầu tư mua vào hơn 20 vạn cây giống loại 1 tốt nhất và ngay trong dịp tết vừa qua, anh đã thu lãi trên 1 tỷ đồng.

Hiện nhà vườn trồng ly của anh Hải rộng hơn 5 mẫu, tạo công ăn việc làm cho hàng chục lao động của địa phương với mức lương từ 4-6 triệu đồng/tháng. “Thuê người dân đến làm là để họ kiếm thêm thu nhập, song điều quan trọng hơn cả là mình đào tạo nghề cho họ, sau khi về họ có thể tự đầu tư làm giàu cho gia đình, phát triển kinh tế, đóng góp vào bộ mặt nông thôn mới của xã” – anh Hải chia sẻ.

Ông Nguyễn Huy Hoàn – Phó Chủ tịch UBND xã Song Phượng, cho biết: “Anh Bùi Tuấn Hải là một thanh niên gương mẫu, đi đầu trong phát triển nghề trồng hoa ly - một loại hoa mới cho thu nhập cao - của xã. Nhờ anh giúp đỡ dạy và phát triển nghề mà đến giờ xã đã có 10 hộ trồng hoa ly trên diện tích 10ha và đều có thu nhập từ 400 đến hơn 1 tỷ đồng, đóng góp vào tiêu chí thu nhập, tạo thành công trong quá trình xây dựng nông thôn mới của xã.

Theo ông Hoàn, thời gian tới xã sẽ tiếp tục nhân rộng diện tích trồng hoa ly và các loại cây nông nghiệp cho thu nhập cao như cà chua, đủ đu lai…, nâng thu nhập của người dân lên trên 30 triệu đồng/người/năm, đứng đầu các xã nông thôn mới của thủ đô.


Trong 3 năm gần đây, đã có hàng chục thanh niên từ các tỉnh của miền Bắc lứa tuổi từ 25 đến 35, tìm đền vườn của anh Hải xin học nghề. Anh Hải vui vẻ nói: “Có bao nhiêu kinh nghiệm tôi đã truyền hết cho họ và giờ có nhiều người đã thành danh ở các tỉnh như Bắc Ninh, Hưng Yên…, mong là trong những năm tới dạy nghề được nhiều hơn cho thế hệ thanh niên nữa”.

Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

Tạm xa vợ con, lên núi… nuôi dê

Mong muốn đổi đời bằng nghề nuôi dê, anh Hà Văn Tâm (người Thái, thôn Lọng, xã Cổ Lũng, huyện Bá Thước, Thanh Hóa) đã quyết định tạm xa vợ con rời làng lên núi gây dựng đàn dê và trâu, bò.

Đó là thời điểm tháng 10.2004, năm thứ 20 sau ngày anh lập gia đình và đã có 2 con. Cùng năm, gia đình anh “được” thôn bình xét vào diện hộ nghèo.

Đàn dê của anh Tâm. 
Không cam chịu cảnh nghèo như thế mãi, anh Tâm bàn với vợ ý tưởng rời làng lên núi Trợi làm trang trại tổng hợp. Đó là nơi có địa hình phức tạp, cách xa dân cư, giao thông rất khó khăn, có 5km phải đi bộ. Tuy nhiên, bù cho thiệt thòi ấy, anh nhìn thấy tiềm năng của thiên nhiên, thức ăn cho gia súc, gia cầm trên núi rất lớn, phù hợp với điều kiện người ít vốn khởi nghiệp như anh.

Bước đầu chưa có vốn, anh vay người thân 5,5 triệu đồng mua được 2 cặp dê mẹ đã có chửa; nhận nuôi rẽ (chia đôi lợi nhuận, người có bò, người có công) 2 cặp bò sinh sản. Cùng với thả dê, thả bò, anh kết hợp làm đất trồng ngô, trồng sắn, nuôi gà, vịt, nuôi cá, từng bước chủ động thức ăn, lương thực cho gia đình.

Năm 2005, tức 1 năm sau khi lên núi, do vẫn thuộc diện hộ nghèo, anh Tâm được hỗ trợ 1 con bò đực giống, anh đem phối giống bò lai cho đàn bò trong xã, và nuôi thêm bò đẻ để nhân tổng đàn và nuôi bò thịt. Khi bò, dê sinh con cái, anh để lại phát triển đàn, nếu là con đực anh nuôi bán thịt, đồng thời mua thêm dê cái, trâu cái để đảm bảo số con đực giống hợp lý cho cả dê, trâu và bò.

Sau hơn 10 năm lăn lộn chịu khó, anh khai thác được gần 200ha khu núi Pu Mới để phát triển kinh tế trang trại, đến cuối năm 2014, tổng đàn vật nuôi của gia đình anh có 250 con dê, 65 con bò và 11 con trâu. Mỗi năm, anh bán 4-5 con trâu, bò thịt, thu về khoảng 100-120 triệu đồng; dê bán ra 30-35 con (tổng trọng lượng khoảng 680-700kg), cộng thêm khoản thu từ cá, gà, vịt trên núi, anh có thêm gần 120 triệu đồng.

Đến nay, tổng giá trị trang trại của anh trên 1,5 tỷ đồng, ngoài ra vợ con anh còn làm 5 sào ruộng, nuôi 3 con bò, 500m2 ao cá, cho thu nhập thêm khoảng 50-60 triệu đồng/năm. Gia đình anh đã truyền kinh nghiệm cho các hộ khác làm theo, đến nay đã có 8 hộ khác phát triển kinh tế trang trại trên khu núi Pu Mới, góp phần tăng số trang trại vừa và nhỏ cả xã lên 33. Từ chỗ hộ nghèo, sau 10 năm, anh Tâm đã trở thành nông dân giỏi, con anh giờ đã vào đại học.

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015

Hội viên nông dân làm giàu từ hai bàn tay trắng

Ông Bùi Văn Đủi sinh ra và lớn lên ở xóm Mè – xã Bình Chân - huyện Lạc Sơn (Hòa Bình), nơi cuộc sống còn gặp nhiều khó khăn. Đồng bào chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, nhưng đất đai của vùng lại khô cằn, không thích hợp cho việc trồng cây lúa, cây ngô. Tuy nhiên, gia đình ông Đủi đã vượt qua mọi khó khăn dám nghĩ, dám làm và gây dựng lên trang trại vườn rừng đạt doanh thu hàng trăm triệu mỗi năm. Ông còn là một trong những tấm gương tiêu biểu dự Đại hội Đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Hòa Bình lần thứ 2.

Một góc trang trại nuôi lợn của gia đình ông Đủi

Vào cuối những năm 1990, huyện Lạc Sơn thực hiện chủ trương giao đất, giao rừng đến từng hộ dân, tạo điều kiện cho bà con chăn nuôi và phát triển kinh tế đồi rừng. Lúc đó ông Đủi là Bí thư chi bộ kiêm Trưởng xóm Mè đã mạnh dạn nhận thầu 7,5ha đất. Ông tâm sự: “ đời sống của người dân ở đây chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, nhưng đất đai lại khô cằn không thích hợp cho việc cấy lúa, trông khoai…chỉ có đồi rừng là phù hợp để thoát nghèo. Ban đầu tôi nuôi 1 con lợn nái Lang hồng bằng nguồn vốn vay mượn và vốn có được từ trồng rừng tôi đầu tư vào nuôi lợn, gà thả rông”.

Với phương châm “lấy ngắn nuôi dài” vừa chăn nuôi vừa đầu tư, sau vài năm, ông Đủi đã có một trang trại lợn lên đến vài trăm con. Để đàn lợn không ra khỏi trang trại và cũng để dễ bề quản lý, gia đình ông đã đào hào xung quanh diện tích rộng 7,5ha và mua hàng nghìn tấm prô kết hợp với cây gỗ sẵn có trong rừng để dựng lên những hàng rào phân luồng cho đàn lợn đi ăn, không để cho chúng phá cây trồng.

Hiện đàn lợn của ông có khoảng 20 lợn nái và hơn 170 lợn con và lợn thương phẩm. Để đảm bảo nguồn thức ăn ngoài rau chuối và cám thì ông còn trồng thêm 3ha sắn để làm nguồn thức ăn cho chúng.

Điều đặc biệt và khác lạ so với các hộ nuôi khác trong xóm là lợn ông Đủi chỉ cần gõ mõ là tự động về ăn. Để “mục sở thị” điều ông nói, chúng tôi cùng ông rời khỏi căn nhà và tiến về phía trang trại đồi rừng. Thật bất ngờ, khi ông Đủi cầm cái mõ bằng bương và gõ vài tiếng và theo tập tính thói quen mà ông vẫn thường làm suốt bao năm nuôi, từng con lợn nghe tiếng từ những bạt rừng xa, gần đua nhau chạy về nơi chủ gọi. Thoáng chốc trước mắt hàng trăm con lợn hau háu đòi ăn, kêu la inh ỏi.

Ngoài chăn nuôi lợn, ông Đủi hàng năm còn nuôi khoảng 100 - 200 con gà, và còn kết hợp trồng gần 1 ha cây keo, 400 gốc tre, bương, luồng cùng với diện tích rừng tái sinh. Theo ông Đủi cho biết nhiều khách hàng đã biết đến với gia đình như một địa chỉ tin cậy. Hiện nay, ông không chỉ cung cấp lợn thịt mà còn cung cấp cả lợn giống bố mẹ cho các hộ chăn nuôi theo hình thức thả rông. Ưu điểm của lợn thả rông là kháng bệnh tốt, lợn chạy nhiều thịt săn chắc, thơm ngon.

Sau nhiều năm vận lộn khó khăn, đến nay, trang trại của ông đã đi vào ổn định, bước đầu cho thấy tiềm năng thu nhập lớn. Năm 2013, giá trị đàn lợn nuôi theo cách thả rông cho thu nhập 150 triệu đồng. Năm 2014 thu nhập gần 200 triệu. Không chỉ làm kinh tế giỏi ông Bùi Văn Đủi còn là một Đảng viên, một Bí thư chi bộ, một Cựu chiến binh tiên phong, gương mẫu đi đầu trong phát triển kinh tế. Ông là tấm gương sáng để các hộ dân trong và ngoài xã đáng để học tập./.

Thứ Hai, 9 tháng 3, 2015

Hai nông dân miền Tây thu nhập hàng trăm triệu nhờ nuôi nai

Từ một cặp nai giống, ông Nguyễn Duy Mẫn ở ấp An Hòa, xã An Cư, (Tịnh Biên, An Giang) đã phát triển lên thêm hơn chục con nai. Nhờ vậy, mỗi năm đem lại nguồn thu nhập cho ông Mẫn hàng trăm triệu đồng từ việc thu hoạch lộc nhung và bán nai giống.

Mưu sinh dưới tán rừng


Rất nhiều nông dân ở An Giang có được cuộc sống ổn định từ việc nhận khoán và chăm sóc rừng ở núi Cấm. Không chỉ vậy, họ còn biết mở hướng làm ăn từ việc chăn nuôi, trong đó ông Mẫn và ông Sơn là những người thành công nhất trong việc nuôi nai cũng như canh tác rừng.

Đang hốt nắm cỏ xanh mơn mởn cho đàn nai vừa thu hoạch lộc nhung, ông Nguyễn Duy Mẫn ở ấp An Hòa, xã An Cư, huyện Tịnh Biên (An Giang), cho biết: “Năm 1999, tôi được Chi cục Kiểm lâm tỉnh hỗ trợ vốn để mua cặp nai với số tiền gần 19 triệu đồng, khi ấy cũng khoảng 4,5 lượng vàng. Nhờ vậy mà giờ cuộc sống giờ được ổn định hơn rất nhiều”.


Từ hai con nai giống ban đầu, ông Mẫn phát triển thành đàn nai hơn chục con.

Có vật nuôi trong tay, ông Mẫn tiến hành đóng chuồng nuôi nai. Và để có nguồn thức ăn cho nai cũng như giảm chi phí, công lao động, lão nông này quyết định trồng cỏ voi dưới tán rừng. Nhờ chịu khó tìm hiểu kỹ thuật chăm sóc, cách xây dựng chuồng trại…sau hơn 2 năm ông Mẫn đã trả xong khoản nợ vay từ việc bán nai giống. Nhận thấy, việc nuôi nai ở đây rất phù hợp và có thể làm giàu nên cặp nai bố mẹ được ông giữ lại gầy đàn. Nhờ vậy mà đến nay đàn nai đã tăng lên 11 con (7 đực, 4 cái).

Cũng ăn nên làm ra với việc nuôi nai, ông Nguyễn Văn Sơn ở ấp Tân Long, xã Tân Lợi, huyện Tịnh Biên, chủ sở hữu đàn nai lên đến 12 con, cho biết: “Từ việc nuôi bò và hươu không hiệu quả năm 2006, tôi quyết định mua nai giống về nuôi. Bởi đây là loài vật nuôi nhốt nên không tốn nhiều thời gian chăm sóc, lại lớn nhanh, ít bệnh. Nuôi nai khỏe hơn và thu nhập cao hơn rất nhiều so với việc nuôi bò. Hàng ngày chỉ bỏ ít thời gian đi cắt cỏ”.


Giờ đây, mỗi năm từ việc thu hoạch nhung nai và bán nai giống ông Mẫn thu nhập trên 200 triệu đồng.

Theo ông Mẫn và ông Sơn, đây là loài vật dễ nuôi, đem lại hiệu quả kinh tế rất cao mà lượng thức ăn không nhiều. Nai nuôi 1,5 năm trọng lượng con đực khoảng 80 kg và bắt đầu cho lộc nhung, còn nai cái nuôi khoảng 2,5 năm bắt đầu cho sinh sản. Sau khi nai con được 5 tháng tuổi thì có thể xuất bán.

Nói về việc xây chuồng cũng như cách chăm sóc, ông Mẫn, chia sẻ: “Chuồng nuôi xây dựng theo hướng Đông hoặc Đông Nam, ván được đóng thưa để tạo thoáng mát. Diện tích nuôi đối với mỗi con phải từ 8 - 10m2. Không nên nhốt những con nai có gần quan hệ huyết thống với nhau, bởi nếu chung chạ thì trong quá trình phối giống dễ xảy ra cận huyết. Mỗi ngày nai được cho ăn từ 3 - 4 đợt, tương ứng khoảng 6 - 10 kg cỏ/con (tùy lớn nhỏ), mỗi năm tiêm ngừa 2 lần để ngừa bệnh tụ huyết trùng, lở mồm long móng”.

Trở thành triệu phú

Gắn bó đã nhiều năm và ăn nên làm ra từ việc nuôi nai, nên ông Mẫn, ông Sơn đều duy trì đàn nai với số lượng nhiều như hiện tại và sẽ còn tăng lên trong thời gian tới. Trong thời gian chờ diện tích rừng khoán đến thời điểm khai thác thì việc nuôi nai là nguồn thu nhập chính đối với những hộ dân nơi đây.

Để nuôi nai thành công, ngoài cách xây chuồng, chăm sóc thì việc thu hoạch nhung cũng rất quan trọng, đôi khi nó quyết định thắng thua. Thu hoạch lộc đến nai đã hàng chục lần, ông Sơn, chia sẻ: “Để thu hoạch nhung phải cần có 3 người nhằm đưa nai vào chuồng ghép (chuồng nhỏ) rồi sử dụng dây dù ép cho nai nằm xuống và dùng lưỡi cưa sắt để cắt sừng. Để hạn chế nguy hiểm cho nai thì chừa sừng đúng 2 cm so với đỉnh đầu. Cắt xong dùng thuốc Bắc đắp vào vừa để cầm máu và vệ sinh cho nai”.


Nai rất ít bệnh và thức ăn của chúng chủ yếu là cỏ tươi, lá cây...

Nai tùy theo lớn nhỏ mà cho lượng nhung ít nhiều. Với 4 nai đực đang cho lộc mỗi năm ông Mẫn thu hoạch được hơn 7,5 kg. Mỗi ký được bán với giá 15 triệu đồng, nguồn hàng được ông bán cho các thương lái ở Cần Thơ, Long Xuyên, TPHCM…Ngoài ra, gia đình ông Mẫn còn cung ứng từ 1 - 3 cặp nai giống với giá 45 - 50 triệu đồng/cặp cho các hộ nuôi ở ĐBSCL. Tính ra từ việc nuôi bán nai giống, lộc nhung đã đem lại nguồn thu nhập cho ông Mẫn trên dưới 200 triệu đồng.

Còn đối với ông Sơn, việc có đàn nai nhiều nhất Tịnh Biên và Tri Tôn (12 con) thì mỗi năm cho thu hoạch 10 kg nhung, vì có con cho đến 2,5 kg. Ngoài ra ông cũng bán được 2 - 3 cặp nai giống. Như vậy, mỗi năm đem lại nguồn thu nhập khoảng 250 triệu đồng cho gia đình ông Sơn.


Với việc sở hữu hơn chục con nai, mỗi con bố mẹ có mức giá lên đến vài chục triệu đồng nên đàn nai của ông Mẫn và ông Sơn có giá trị lên đến khoảng gần tỷ đồng. Nhờ thành công với việc nuôi nai mà cuộc sống của người dân núi Cấm cải thiện đáng kể. Qua đó góp phần phát triển và bảo tồn các loài động vật hoang dã.

Theo thống kê, khu vực núi Cấm có 5 hộ nuôi nai với số lượng khoảng 50 con, hộ nuôi nhiều nhất lên đến 12 con.

Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2015

Nuôi ba ba trên đất rừng thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm

Nuôi cá không hiệu quả, ông Hương quyết định đầu tư vào ba ba trên đất rừng và hiện thu lãi 200–250 triệu đồng mỗi năm.

Năm 1995, ông Nguyễn Đình Hương (53 tuổi, Đại Lộc, Quảng Nam) được Nhà nước cấp cho hơn 3 ha đất trên núi Trà Cận để sản xuất. Đam mê làm kinh tế trang trại, ông quyết định đào ao nuôi cá và nuôi thử nghiệm nhiều giống cá như cá trắm, cá mè, cá trôi… Tuy vậy, việc làm ăn không được như mong muốn khi bỏ nhiều công sức, chí phí cao mà thu nhập vẫn thấp.

Đến đầu năm 2012, sau nhiều lần theo dõi, nghiên cứu mô hình nuôi ba ba, ông Hương quyết định đầu tư vốn vào nuôi con vật này. Cất công bắt xe vào Bình Dương để mua 150 con giống về nuôi thử nghiệm, trong năm đầu, vì chưa có nhiều kinh nghiệm nên ông chỉ bán được 100 con, thu 50 triệu. Lứa ba ba đầu đã giúp ông nhân giống thành công 1.000 con cho năm tiếp theo.

Mỗi con ba ba nặng 1,5 kg đến ngày thu hoạch có giá hơn 500.000 đồng. Mỗi năm, ông Hương thu lãi 200 – 250 triệu đồng. Ảnh: Nguyễn Dương.


Điều thuận lợi là mảnh đất rừng của gia đình phù hợp cho nuôi ba ba. "Nước trong ao nuôi được cung cấp từ trong lòng đất, rất sạch và ít bị ô nhiễm", ông nói. Thêm vào đó, nguồn thức ăn là cá nhỏ, nội tạng động vật giá rẻ và cám ăn bổ sung.

"Phải thường xuyên túc trực tại trang trại để đảm bảo mực nước ao nuôi 1 mét trở lên. Trên mặt ao nuôi giai đoạn ba ba đẻ và lấy thịt phải đặt bè tre nổi để chúng lên phơi nắng. Tránh tiếp xúc nhiều và va chạm vì điều này sẽ làm ba ba sợ và bỏ ăn", ông chia sẻ kinh nghiệm.

Nhờ đảm bảo kỹ thuật trong quá trình nuôi, đến ngày thu hoạch, ông Hương bán mỗi con loại 1,5 kg với giá hơn 500.000 đồng. Mỗi năm, trang trại với 7 ao nuôi giúp gia đình ông thu lãi từ 200 đến 250 triệu đồng. Thương lái mối quen tìm đến trang trại ông thu mua là chủ các nhà hàng trên địa bàn Quảng Nam, Đà Nẵng.


Trang trại rộng hơn 7 ha, với 7 ao nuôi trên diện tích đất rừng của ông Hương. Ảnh:Nguyễn Dương.


Ngoài ba ba, hiện nay, ông Hương còn kết hợp nuôi trong trang trại gần 60 con dê, 3 bò nái, gần 200 con gà, cho thu nhập thêm trên 100 triệu đồng mỗi năm. Cuối năm 2014 vừa qua, ông Hương nhận bằng khen Nông dân sản xuất giỏi của UBND tỉnh Quảng Nam.

Ông Hồ Ngọc Mẫn, Trưởng phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đại Lộc, cho biết trang trại nuôi ba ba của ông Hương hiện nay là lớn nhất huyện, cho thu nhập cao. "Sắp tới, chúng tôi sẽ mở rộng mô hình này cho bà con bằng việc thông qua những kinh nghiệm, kỹ thuật nuôi của ông Hương và tìm những đối tác hỗ trợ, thương lái uy tín cho người nuôi", ông Mẫn nói.

Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2015

9X làm giàu bằng nghề nuôi rắn cực độc

Bất chấp nguy hiểm và những lời can ngăn từ phía gia đình, chàng thanh niên Bùi Hải Minh (21 tuổi) trú thôn Tây, xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Bình) vẫn quyết định khởi nghiệp bằng nghề nuôi rắn hổ mang.
Tốt nghiệp ngành điện lạnh, Trường Cao đẳng nghề số 5 Đà Nẵng với tấm bằng loại ưu, nhưng bằng niềm đam mê với rắn anh Minh đã từ chối nhiều lời mời từ các công ty điện lạnh để về quê nuôi rắn hổ mang. Giữa năm 2012, anh Minh đã xin cấp phép của Chi cục Kiểm lâm Quảng Bình và bắt đầu nuôi 100 con rắn đầu tiên ở 3 chuồng nuôi.

 

Nuôi rắn hổ mang chính là niềm đam mê của chàng thanh niên trẻ Bùi Hải Minh. 

Lứa đầu tiên anh bỏ ra 30 triệu đồng mua con giống và xây chuồng trại. Đến lúc rắn trưởng thành, anh xuất bán nhưng chỉ thu được vỏn vẹn 30 triệu đồng. Thế nhưng anh Minh không nản mà lấy đó làm động lực để quyết “sống chết” với nghề nuôi rắn.

Rút kinh nghiệm từ lần nuôi trước, lứa sau anh ra một số trại nuôi rắn ở Thanh Hóa để tìm hiểu kỹ thuật nuôi rắn hổ mang. Tại đây, anh được nhiều người dân chỉ dạy các kỹ thuật về chọn giống, chăm sóc, tìm hiểu các bệnh lý thường gặp, đặc biệt là đặc tính sinh học của rắn.

“Địa hình ở quê mình là địa hình bán sơn địa, khô ráo, thoáng mát nên rất thích hợp cho việc nuôi rắn hổ mang. Rắn hổ mang là một loài dễ nuôi, ít bệnh tật. Chỉ cần chuồng trại đảm bảo được yếu tố sạch sẽ, yên tĩnh, kín gió thì rắn sẽ lớn rất nhanh. Thức ăn chủ yếu là ếch nhái, chuột dễ dàng kiếm ở vùng nông thôn như quê mình. Nguồn thức ăn dồi dào cũng là một điều kiện thuận lợi cho nghề nuôi rắn” - anh Minh cho biết.

Theo anh Minh, thời gian để xuất bán được một lứa rắn thì tuỳ theo kích cỡ và chất lượng giống mà thời gian nuôi có thể kéo dài từ 1 – 1,5 năm. Riêng anh, do luôn có nguồn giống đảm bảo chất lượng lại thêm nuôi đúng kỹ thuật, kinh nghiệm trong quá trình tự mày mò, học hỏi, đúc rút từ thực tế nên chỉ nuôi từ 7 – 8 tháng là anh đã có thể xuất bán, con to có trọng lượng khoảng 2,5kg, trung bình từ 1,5 – 2kg, giá bán dao động từ 600 - 800 nghìn đồng/kg, lúc cao có thể lên tới 1 triệu đồng/kg. Tính bình quân, sau khi trừ các khoản chi phí đầu vào, anh thu về từ 80 - 100 triệu đồng/năm.

Tuy nhiên, anh Minh hiểu rằng, nuôi rắn hổ mang cũng là nghề vô cùng nguy hiểm, nếu không nắm bắt được những đặc tính sinh học của loài vật này. “Nhiều người nghĩ, rắn là loài động vật hung dữ vì hay tấn công người. Tuy nhiên, nếu mình có thời gian tiếp xúc với rắn nhiều và giữ cự ly an toàn với chúng thì chúng sẽ rất ôn hòa. Tiếp xúc nhiều, rắn sẽ quen với thân nhiệt của mình và từ đó sẽ giảm bớt bản tính hoang dã trong chúng” - anh Minh chia sẻ kinh nghiệm.

Tuy nhiên, theo Minh dù quen đến mức độ nào thì người nuôi rắn cũng cần phải có tính cẩn thận khi tiếp xúc với chúng để sẵn sàng chủ động mọi tình huống, bởi nọc rắn hổ mang cực độc, người bị cắn có thể mất mạng nếu trúng một cú tấn công của chúng.

Thứ Năm, 5 tháng 3, 2015

“Vua” vịt trời và "siêu dự án" nuôi vịt bằng thảo dược

Suốt 30 năm làm nghề nuôi vịt thịt, ông vua “vịt” Nguyễn Thanh Tuyền (xã Lộc Ninh, huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh) thấy nếu cứ mãi “cắm đầu” vào con vịt thịt, thì hệ số lãi suất không cao, nên đã ném cả chục tỷ đồng để lập trang trại vịt trời.

Thấy tôi săm soi đàn vịt trời đang bơi lội tung tăng trong trang trại của mình, vua “vịt” Nguyễn Thanh Tuyền phấn khởi cho biết: “Tôi là vua “vịt” nên cứ thứ gì dính đến vịt là tôi nuôi”. Đây cũng là trang trại vịt trời đầu tiên ở đất phương Nam.

Vịt trời vào trang trại

Tiếp tôi tại bộ bàn đá đặt cạnh ao thả vịt trời, ông Tuyền thở phào: “Tôi vừa lên xã xin lập dự án nuôi vịt trời. Cán bộ xã bảo phải lập dự án mới vay tiền ngân hàng được. Ngày trước làm theo kiểu nông dân, thấy gì làm nấy, đâu cần làm dự án. Bây giờ thiếu tiền mới làm dự án để vay ngân hàng”. Ý định của ông Tuyền là sẽ vay ngân hàng vài ba tỷ đồng để mở rộng quy mô nuôi vịt trời.

 

Ông Nguyễn Thanh Tuyền cho đàn vịt trời 5 ngày tuổi ăn. Đây là số vịt trời giống ông triển khai cho siêu dự án vịt trời. Trần Thế

Nói về cái nghiệp nuôi vịt của mình, ông Tuyền nhớ lại: “Thuở thiếu thời tôi sống ở miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long nên không lạ gì con vịt trời. Thậm chí, tôi còn cùng chúng bạn rủ nhau đi săn vịt trời ngoài đồng ruộng, nên đã sớm ấp ủ tham vọng sẽ phải thuần hóa và nuôi bằng được loài vịt này”. Nhìn đàn vịt trời bố mẹ tới 1.500 con ông Tuyền đang thả trong ao, thi thoảng từng tốp bỗng đập cánh bay vù vù, tôi hỏi ông Tuyền: Nếu cả đàn vịt kia “sổ lồng” bay đi mất thì sao? Ông Tuyền cười lớn rồi nói: “Chúng đã được tôi thuần hóa hết rồi, thi thoảng mới có 5-10 con bay lạc mất thôi, chứ đã nuôi giống này mà lúc nào cũng lo nó bay đi mất thì hơi sức đâu mà lo”.

Để có chỗ nuôi giữ đàn vịt trời “khủng” trên, ông Tuyền đã “đổ” vào đây cả chục tỷ đồng để biến đầm lầy rộng 5ha thành trang trại.

Thấy tôi thắc mắc, thuần hóa được vịt trời đã đành, nhưng quan trọng lấy giống đâu để mà nuôi nhiều thế, ông Tuyền cười nói: “Đúng là thời gian đầu phải nói nôm na là đi nhặt nhạnh về nuôi. Tôi lần mò vô những xã vùng sâu, vùng xa của Long An, Đồng Tháp… mua mỗi lúc vài con vịt trời trong dân về làm giống. Họ bắt vịt trời hoang dã từ đồng về cắt ngắn lông cánh để vịt không bay rồi nuôi như vịt nhà”.

Thấy cách tìm giống như thế “phiêu” quá, ông đã bắt xe ra ngoài Bắc, tìm về Bắc Giang rồi “tậu” một lúc hàng trăm con vịt trời giống. Theo ông Tuyền, nếu bình quân mỗi con bố mẹ có giá 1 triệu đồng như hiện nay, chỉ riêng đàn vịt trời giống của ông đã phải bỏ ra gần 2 tỷ đồng. Ngoài đàn vịt giống này, ông còn có hơn 15.000 vịt trời đang nuôi bán thịt. Hiện trong trang trại vịt trời của ông Tuyền luôn có 20 công nhân lo chăm sóc, ăn uống, xử lý nước cho đàn vịt trời với mức lương 3 triệu đồng/tháng.

Một vốn, bốn lời

Gần 30 năm nuôi vịt thịt, cuối cùng ông Tuyền cũng gác lại để chuyển sang đầu tư nuôi vịt trời. Đâu là nguyên nhân để vua “vịt” bám đuôi con vịt trời? Lý do, theo ông Tuyền là do giá cả vịt thịt thất thường lại hay bị dịch bệnh nên nghề nuôi vịt khó phát triển, mà đầu tư nuôi vịt trời lại siêu lợi nhuận, dễ nuôi, nên ông đã chuyển đổi mô hình chăn nuôi để có hiệu quả hơn.

Để minh chứng cho tôi thấy lợi nhuận của nghề nuôi vịt trời, ông Tuyền đã phác thảo cho tôi vài con số. Theo ông Tuyền, nuôi một con vịt siêu thịt cùng một thời gian nuôi ăn thức ăn bằng 4 – 5 con vịt trời. Trong khi đó, khi bán một con vịt trời giá gấp 2 - 3 lần con vịt siêu thịt. “Vịt trời khá dễ nuôi. Thịt thơm, ngon, ngọt, xương nhuyễn hơn vịt thịt nên hiện thị trường rất ưa thích” - ông Tuyền chia sẻ.

Bình thường, để nuôi vịt trời, ông Tuyền thường chọn mua những con giống vài ba tuần tuổi, sau khi nuôi khoảng 3 -4 tháng, trọng lượng vịt trời có thể đạt hơn 1,3kg. Lúc này vịt có thể xuất chuồng với giá hiện thời là 250.000 – 300.000 đồng/con tại các nhà hàng, tiệm ăn. Trung bình, cứ 5 ngày trang trại của ông Tuyền có thể bán ra 3.000 con vịt trời, tương đương với số tiền thu về từ 750 - 900 triệu đồng. Như vậy mỗi tháng trang trại nhà ông Tuyền thu về trên dưới 4 tỷ đồng. Mặc dù bán được số lượng vịt lớn như vậy, nhưng ông Tuyền vẫn chưa hài lòng, vì theo ông, lượng vịt bán ra phải cao hơn nữa mới đạt yêu cầu về quy mô của trang trại. Được biết, với mỗi con vịt trời bán ra, chỉ cần với giá 100.000 đồng là đã hòa vốn, bởi tuy giá giống đắt, nhưng bù lại tiền thức ăn lại ít hơn hẳn so với vịt thịt.

Sau một thời gian tiếp cận thị trường Tây Ninh, Đồng Nai… đến nay, ông Tuyền đang tìm cách bán vịt trời cho thị trường trọng điểm TP.HCM. Bởi theo ông, đây là thị trường chủ lực để triển khai một “siêu” dự án nuôi vịt trời lớn nhất Việt Nam sắp tới.

Siêu dự án vịt trời

Đến thời điểm này, ông Tuyền đang có 3 trại nuôi vịt trời. Theo dự tính, ngay sau Tết Nguyên đán, ông sẽ tăng đàn vịt trời lên khoảng 50.000 con. Tuy nhiên, đó không phải là “siêu” dự án mà ông đang dự tính triển khai. Bằng chứng là ông đang cho ương đàn vịt giống lên cả 100.000 con với 200 chuồng ương giống.

Trong khu vực ương vịt trời giống, hàng ngàn con vịt con từ vài ngày cho đến chục ngày tuổi lúc nhúc trong những chuồng ương. Những đàn vịt trời này một phần giúp ông thực hiện một dự án “khủng” nuôi vịt trời lớn nhất Việt Nam ở đất phương Nam. “Trước khi cho đám vịt con này tiếp nước, tiếp đất tôi phải cho tiêm ngừa đầy đủ” - ông Tuyền nói.

Theo kế hoạch ông sẽ hợp tác với 3 nông dân triển khai một dự án nuôi vịt trời rộng 1.000ha. “Chúng tôi đã thống nhất kế hoạch triển khai dự án này rồi. Trang trại sẽ có diện tích 1.000ha tại khu vực cạnh hồ Dầu Tiếng. Trong khu đất này có khá nhiều hố bom, những thung lũng có thể chứa nước nuôi vịt trời, kết hợp thả nuôi cá” - ông Tuyền cho biết. Bên cạnh đó, cũng theo ông Tuyền, sắp tới sẽ triển khai nuôi vịt trời bằng thảo dược chứ không nuôi bằng thức ăn thường như hiện nay. “Nhu cầu ăn chơi của người dân ngày càng đòi hỏi không những ngon mà còn độc đáo, nên tôi cũng phải tìm mọi cách nâng cao chất lượng sản phẩm vịt trời của mình nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường” - ông nói.

Để manh nha thực hiện “siêu” dự án vịt trời, từ lâu trong trang trại vịt trời của ông Tuyền lúc nào cũng có một chuyên gia người Đài Loan chuyên xử lý nước và các vấn đề liên quan đến kỹ thuật với mức lương “khủng”. Tham vọng của ông Tuyền là sẽ chinh phục thị trường vịt trời cho toàn bộ các tỉnh miền Nam.

Thứ Tư, 4 tháng 3, 2015

Những người vắt đất ra... vàng

Dám nghĩ, dám làm và cần cù, chịu khó, ngày càng nhiều nông dân ở TP.HCM bắt ruộng vườn sinh lời tiền tỷ.
Biến đầm lầy thành đất vàng

Có ai ngờ, vùng đầm lầy xã Hiệp Phước (Nhà Bè) bao năm nổi tiếng vì sự nghèo khó, giờ đây đã xuất hiện nhiều tỷ phú chân đất.

 

Nhờ nuôi 7 ha ao tôm, Năm Xuân thu hàng tỷ đồng/năm.

Con đường vào ấp 2, nơi có đầm tôm của anh Trần Văn Xuân (Năm Xuân) vẫn mang dấu ấn của một vùng quê nghèo khó: Đường đất, lở lói, ngập ngụa sình lầy. Nó càng tệ hơn khi mấy hôm nay triều cường lên nên cứ mỗi chiều là ngập lút gần hết bánh xe máy. Nhớ lại chục năm trước, ở vùng này, nước vừa phèn, vừa lợ, nuôi con gì cũng khó lớn, còn lúa chỉ trồng được mỗi năm một vụ với năng suất thấp lè tè.

Giờ đây vùng đất này như thay da, đổi thịt từ khi có con tôm sú, tôm thẻ chân trắng đến “thường trú”. Trên dải đầm lầy nằm cặp sông Nhà Bè thuộc các ấp 2, 3, 4 xã Hiệp Phước chi chít ao tôm xen giữa những vạt dừa nước. Nhiều đại gia trong nội thành cũng kéo về xã Hiệp Phước thuê đất nuôi tôm. Năm Xuân chia sẻ, từ khi người nông dân xã Hiệp Phước làm quen với con tôm sú, tôm thẻ chân trắng, túi tiền cũng ngày càng rủng rỉnh hơn. “Đời sống của bà con nơi đây giờ khấm khá hơn trước nhiều cũng nhờ nuôi tôm” - anh Năm nói. Giờ tại xã Hiệp Phước, nông dân chẳng ai còn thiết tha với cây lúa. 70% nông dân đã chuyển từ lúa sang tôm, trong đó 40% là nuôi công nghiệp. Số nông dân còn lại đi làm công nhân tại các công ty, xí nghiệp đóng trên địa bàn xã.

Mỗi năm anh Năm làm 2 vụ tôm với 7ha ao nuôi. Theo Năm Xuân, cứ mỗi vụ tôm, trừ đi các chi phí trung bình anh lời 400-500 triệu đồng/ha. Điều này lý giải tại sao anh lại có một căn biệt thự hoành tráng và 1 cửa hàng bán thức ăn, trang thiết bị nuôi tôm. Trong khi đó, tại vùng đầm lầy Trảng Lắm (xã Trung Lập Hạ, huyện Củ Chi) – một vùng đất bao đời khốn khó, giờ cũng xuất hiện những tý phú chân đất.

Năm 1992, sau khi rời quân ngũ, anh Trần Văn Khoản (sinh năm 1961) dắt díu vợ con vào Nam, chọn vùng đầm lầy Trảng Lắm lập nghiệp. Với tính cần cù, chăm chỉ tích góp, đến năm 2004, anh Khoản đã đủ tiền để trả nợ và mở rộng diện tích vườn lên 10.000m2. Cùng với chăn nuôi heo, anh đầu tư 4 ao nuôi cá các loại rộng trên 7.000m2. Tận dụng các tầng nước và sử dụng thức ăn cho cá hiệu quả, anh thả nuôi cá tra, cá trê, cá chép, rô phi, rô đồng… Đồng thời, thực hiện đánh tỉa thả bù để tăng năng suất. Nhờ đó, với 4 ao cá, mỗi năm anh Khoản thu hoạch hơn 20 tấn cá, bán được hơn 400 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí đầu tư, phần nuôi cá mang lại cho gia đình anh khoản lời hơn 230 triệu đồng mỗi năm.

Thấy vẫn còn dư thời gian rảnh rỗi, anh Khoản tận dụng rìa đất quanh ao cá, chuồng heo để trồng gần 200 gốc dừa dứa và hơn 4.000 cây măng tây. Cùng với cá, heo và măng tây, mô hình VAC của anh Khoản mang lại doanh thu khoảng 1,4 tỷ đồng/năm.

Đi xe hơi thăm đồng

Hôm chúng tôi đến thăm, ông Năm Trầm (Ngô Văn Trầm) ở ấp Thái Bửu, xã Lý Nhơn, huyện Cần Giờ, TP.HCM, đang lái chiếc xe hơi trị giá gần 1 tỷ đồng đi thăm… bãi sò. Sau hơn 20 năm đưa con sò huyết từ Kiên Giang về bãi bồi sông nước duyên hải Cần Giờ, lão nông Năm Trầm bắt đầu ngồi thụ hưởng. Hiện nay, mỗi năm ông thu nhập hàng tỷ đồng từ 40ha bãi bồi nuôi sò huyết.

Được biết, năm 2013 ông Năm Trầm thả 100 triệu con giống sò huyết và thu được hơn 4 tỷ đồng. Hiện ở Cần Giờ, ông Năm Trầm là hộ đứng đầu về diện tích nuôi sò với 40ha. Theo ông Trầm, ngoài 40ha bãi bồi nuôi ở Cần Giờ, ông còn đang đầu tư nuôi thêm 20ha sò huyết ở Cà Mau. Không những thế, ông còn nuôi 60ha tôm sinh thái, thu hơn 1 tỷ đồng/năm.


Theo ông Trần Trường Sơn – Phó Chủ tịch Hội ND TP.HCM, những năm gần đây, ở thành phố xuất hiện ngày càng nhiều hộ nông dân sản xuất, kinh giỏi với các tố chất mới - đó là sản xuất kinh doanh có hiệu quả trên cơ sở nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản, ứng dụng công nghệ cao… Không ít nông dân đã có xe hơi đi thăm đồng.

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Luyện chim công múa thu lãi 300 triệu mỗi năm

Mỗi cặp công giống bán với giá từ 2 - 3 triệu đồng, còn công bố mẹ giá từ 10 - 20 triệu đồng một con đã mang về khoảng lợi nhuận gần 300 triệu đồng mỗi năm cho ông Nguyễn Hữu Khởi.


Ông Nguyễn Hữu Khởi thôn Đông Sơn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du, Bắc Ninh cho biết, nghề nuôi những con vật đặc sản, quý hiếm này, biết thì rất dễ nhưng không có kiến thức thì thất bại ngay, nhất là công tác vệ sinh chuồng trại phải luôn đảm bảo sạch, vật nuôi mới nhanh lớn được.

Ông Khởi cho hay, trước đây gia đình cũng nuôi gia cầm, nhưng do giá bấp bênh, dịch bệnh nhiều, thường xuyên bị thua lỗ nên rất chán nản. Đến năm 2009, trong một lần tình cờ xem phóng sự trên đài về mô hình nuôi chim công của một nông dân ở tỉnh Nam Định, thấy giới thiệu loài chim hoang dã có bộ lông sặc sỡ lại múa đẹp này không chỉ dễ nuôi mà thị trường đang khan hiếm. “Lúc đó tôi mê ngay, nên quyết tâm xuống Nam Định mua hơn 10 con chim công mới nở, giống Ấn Độ, giá 750.000 đồng mỗi con về nuôi thử”, ông kể.

Ông Khởi nuôi chim Công thu lãi hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Vốn bản tính cần cù, ham học hỏi, ông đã tự tìm hiểu những kỹ thuật nuôi chim trên mạng, sách báo, cộng với việc có kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực nuôi gia cầm nên việc nuôi chim công của ông gặp nhiều thuận lợi, chim phát triển tốt. Từ số con giống mua được, đến giờ đàn chim của gia đình ông Khởi sinh sôi lên đến gần 50 con công bố, mẹ.

Nói đến công việc chăn nuôi chim công, ông Khởi tâm sự, chim công là loài động vật có nguồn gốc hoang dã, việc nuôi nó không quá khó. Ưu điểm của loài chim là sức đề kháng tốt, tỷ lệ nuôi sống cao. Chim công là loài ăn tạp, thức ăn cho chim cũng đơn giản, dễ kiếm, chủ yếu là thóc, ngô và rau xanh, cỏ chiếm 60%. Lượng thức ăn chỉ bằng 1/3 của gà nên tiết kiệm được khá nhiều chi phí chăn nuôi. Một ngày ông cho ăn 2 lần, buổi sáng cho ăn ngũ cốc ủ mầm, chiều cho ăn rau xanh.

Riêng chim non sẽ có chế độ ăn khác hơn chim công trưởng thành, vì còn non nên phải thường xuyên theo dõi và chăm sóc cẩn thận. Chuồng trại cho chim cũng rất đơn giản có thể tận dụng chuồng gà, chuồng lợn, xung quanh vây thép B40. Chuồng nuôi chọn nơi khô ráo, thoáng mát, bảo đảm giữ ấm mùa đông, thoáng mát về mùa hè.

Tuy nhiên, cách vệ sinh phòng bệnh cho chim công mới chính là bí quyết khiến ông Khởi thành công. Cùng với việc tiêm phòng như các loại gia cầm khác, ông thường xuyên sử dụng men vi sinh rải khắp chuồng trại để xử lý chất thải, khử mùi hôi, tạo môi trường sạch, giúp chim công phát triển nhanh, rất ít bị bệnh đường ruột và hô hấp.

Sau 2 năm nuôi chim đạt đến độ tuổi trưởng thành và bắt đầu có khả năng sinh sản. Chim công đẻ vào cuối mùa xuân cho tới hết mùa hè, mỗi năm công mái đẻ khoảng 25 đến 35 trứng. Ban đầu, khi chim công giống đẻ trứng, ôngKhởi cho gà ấp trứng nhưng tỷ lệ nở không cao nên đã sử dụng lò điện để ấp và tìm ra công thức duy trì nhiệt độ thích hợp để trứng nở với tỷ lệ 90%.

“Trung bình mỗi năm, tôi xuất bán cho khách du lịch và các bạn hàng cả nước hàng trăm cặp công giống, với giá từ 2 - 3 triệu đồng mỗi cặp. Còn công bố mẹ giá từ 10 - 20 triệu đồng một con. Hàng năm, tôi thu lãi về tổng cộng khoảng trên 300 triệu đồng", ông Khởi cho biết.