Trang

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

Khá nhờ nuôi hàng độc: Gà rừng, chim trĩ - làm chơi ăn thật

Nhiều nhà hàng, quán ăn đã thu hút thực khách với món gà rừng, chim trĩ. Cứ ngỡ chúng được bắt từ rừng về, nhưng thật ra chúng đều được nuôi từ những nhà vườn.


Chim trĩ nuôi ở trang trại bà Xuân.


Khởi nghiệp từ việc đổi trứng gà

Một lần chúng tôi ghé thị xã Long Khánh rồi đi sâu vào ấp Núi Đỏ, giáp với cánh rừng cao su bạt ngàn, nơi đây tập trung nhiều quán ăn thu hút đông khách đến từ các tỉnh thành. Cô chủ quán vui vẻ hướng dẫn chúng tôi ra phía bên hông quán đang nhốt mấy chuồng lớn gồm hàng trăm con gà rừng và chim trĩ. Chủ quán cho biết lấy gà rừng, chim trĩ từ các chủ nuôi ở các huyện Định Quán, Tân Phú, Trảng Bom... thuộc tỉnh Đồng Nai.

Đến thị trấn Định Quán (huyện Định Quán, Đồng Nai) hỏi nhà bà Đỗ Thị Xuân chuyên nuôi gà rừng và chim trĩ đỏ ai cũng biết. Bởi gia đình bà đã sử dụng hơn 3.000 m2 đất vườn làm trang trại nuôi hàng ngàn con gà rừng và hàng trăm con chim trĩ.

Bà Xuân cho biết từ nhiều năm trước gia đình bà sống trầy trật với nghề làm rẫy, nhưng từ khi chuyển qua nghề nuôi gà rừng thì cuộc sống gia đình trở nên dễ chịu. Bà cầm con dao chặt trái dừa mà chồng bà vừa hái trên cây xuống rồi mời khách dùng.

Bà khoe: “Giống dừa này cho trái sai, nước ngọt, cơm ngon lắm. Chúng tôi trồng dừa để có trái bán, đồng thời tạo bóng mát cho đàn gà rừng nữa. Gà rừng sống trong rừng nên khi được đem về nuôi phải tạo bóng cây mát cho chúng”.

Nhìn đàn gà rừng đang lục lọi tìm thức ăn, bà Xuân cho biết cách đây khoảng bốn năm, khi thấy những người dân tộc thiểu số ở gần nhà thường vào rừng bẫy bắt gà rừng và nhặt trứng về ăn, vợ chồng bà đem trứng gà ta đổi cho họ để lấy trứng gà rừng về ấp nuôi thử xem được không. Khi gà nở, vợ chồng bà nuôi theo phương thức giống như gà nhà, nhưng được một thời gian gà chết vì không thích nghi được.

Quyết không bỏ cuộc, vợ chồng bà Xuân vẫn tiếp tục đổi trứng về ấp nở, đồng thời chồng bà bắt đầu lên mạng tìm hiểu thông tin về loài gà rừng và môi trường chúng sống như thế nào để biết cách chăm sóc. Từ đó vợ chồng bà mới biết rằng con gà rừng với bản chất sống trong môi trường thiên nhiên sạch sẽ quen rồi, nếu nuôi chúng giống như gà ta sẽ không phù hợp và gà sẽ lần lượt chết hết.

Hai vợ chồng bà bắt đầu làm theo hướng dẫn của tài liệu trên mạng Internet là thiết kế làm chuồng trại, thường xuyên dọn vệ sinh sạch sẽ, ấm áp và sửa sang khuôn viên vườn sao cho gần giống môi trường thiên nhiên.Vợ chồng bà trồng thêm nhiều loại cây ăn trái trong vườn như dừa, ổi, chôm chôm, sầu riêng, bưởi... vừa có trái để bán vừa phải tạo ra bóng mát cho gà rừng và chim trĩ cư trú.

Đến chim trĩ

Đặc biệt từ khi bắt tay vào nuôi gà rừng và chim trĩ trong vườn, vườn cây trồng của bà không hề phun bất kỳ thuốc bảo vệ thực vật nào, mà chủ yếu bón vôi xung quanh gốc cây và treo bịch long não trên cành cây để ngăn ngừa kiến, sâu... gây hại cho cây.

“Chúng tôi làm như vậy để đàn gà được sinh trưởng, phát triển tốt trong môi trường tự nhiên trong lành. Chính phân của vật nuôi thải ra dưới những gốc cây càng làm tốt cho đất và tạo nguồn dinh dưỡng cho cây”, bà Xuân giải thích.

Đàn gà rừng ở trang trại bà Xuân.

Theo bà Xuân, gà rừng khác gà ta ở nhiều chi tiết như: lông gà rừng có màu sắc rực rỡ hơn, đẹp hơn, chân màu đen, tích trắng, mồng lá nhỏ. Gà rừng trưởng thành cân nặng khoảng 8 lạng nên dáng dấp thon gọn và nhanh nhẹn. Thức ăn cho chúng là cám công nghiệp lúc nhỏ, lớn lên chủ yếu là lúa, ngoài ra cho ăn thêm bắp, đậu xanh...

“Con gà rừng thường bị bệnh hô hấp vào mùa mưa nên chúng tôi thường ngăn ngừa bằng nhiều biện pháp: giữ gìn chuồng trại sạch sẽ, chích ngừa, cách ly con bệnh để khỏi bị lây lan. Nhờ nắm vững phương pháp chăm sóc nên đàn gà sinh sôi nẩy nở ngày càng nhiều hơn. Hai năm đầu gia đình tôi nuôi để nhân giống chứ không bán. Cho đến nay tổng đàn gà đã lên khoảng 1.000 con, trong đó có 200 con gà mái chuyên đẻ trứng”, bà Xuân cho biết thêm.

Ngoài ra, tại khu vườn nuôi gà của bà Xuân còn nuôi thêm chim trĩ đỏ. Trước đây bà đã không ngại khó lặn lội về miền Tây để mua được giống chim trĩ về nuôi. Trước khi nuôi, vợ chồng bà đã tham khảo nghiên cứu tài liệu trên mạng về loài chim trĩ, nên lúc đưa chim về nuôi mọi việc đều diễn ra thuận tiện và chim ngày càng nhân giống một nhiều. Theo bà Xuân, một con chim trĩ mái có thể đẻ 100 trứng/năm. Cho đến nay tổng đàn chim của nhà bà lên đến hàng ngàn con.

Làm chơi ai ngờ... có ăn thật

Ngay khi vợ chồng bà Xuân đi đổi những quả trứng gà thường để lấy trứng gà rừng về ấp, rồi đi mua giống chim trĩ về nuôi, vợ chồng bà Xuân cứ nghĩ là chỉ để nuôi chơi, giải trí chứ không nhằm đến mục đích kinh doanh. Nhưng rồi đàn gà sinh nở mỗi lúc càng nhiều, cộng với may mắn của vợ chồng bà là đàn gà cứ vậy lớn lên chứ không bị dịch bệnh gì. Chỉ trong vòng hai năm sau, số gà rừng và chim trĩ đỏ của gia đình bà đã phát triển khá nhanh. Từ đây, vợ chồng bà Xuân phải mở rộng luôn trang trại tại vườn nhà, làm thêm nhiều chuồng, vây lưới B40 để nhốt chúng và bắt đầu bán bớt.

Từ việc nuôi giải trí, giờ đây gia đình bà đã trở thành một địa chỉ chuyên cung cấp gà rừng giống, gà rừng thịt và chim trĩ đỏ cho nhiều người trong và ngoài tỉnh.Theo bà Xuân, gà rừng nuôi khoảng sáu tháng là bán được. Gà bán để gây giống, chơi kiểng, và gà để đá thì giá trung bình 250.000 đồng/con, còn con nào tướng tá xấu thì bán thịt 200.000 đồng/con.

Tương tự, chim trĩ cũng nuôi trong vòng sáu tháng, mỗi con nặng khoảng 1,5kg đối với con trống (con mái nhẹ ký hơn). Nếu bán chim trĩ giống nuôi từ một đến hai tháng tuổi thì có giá từ 100.000 - 200.000 đồng/con, còn chim trĩ bán thịt từ 300.000 đồng/kg.

“Ngoài việc người dân biết tìm đến tham quan và mua trực tiếp chúng tôi còn đăng ký rao bán qua mạng nên không những khách hàng trong tỉnh mà cả ngoài TP.HCM, Hà Nội, Ninh Bình... cũng tìm đăng ký mua. Mỗi tháng chúng tôi xuất chuồng từ 150 - 200 con gà và thu 25-30 triệu đồng. Còn chim trĩ mỗi năm tôi bán và thu vào hơn 100 triệu đồng”, bà Xuân cho biết.

“Tiếng lành đồn xa”, người dân tìm đến trang trại của vợ chồng bà Xuân để mua gà rừng, chim trĩ ngày càng nhiều. Không dừng lại, hướng sắp tới gia đình bà Xuân sẽ tiếp tục mở rộng quy mô chăn nuôi và tìm kiếm thêm những thị trường tiêu thụ lớn, ổn định để xây dựng một thương hiệu sản phẩm gà rừng, chim trĩ đỏ cho mình.

    Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

    Người đàn ông Khmer làm giàu nhờ thả rắn trong vườn

    Ý tưởng nuôi rắn hổ hèo thả tự nhiên ngoài vườn chứ không nuôi lồng, chuồng giúp rắn mau lớn đã giúp một người đàn ông Khmer ở miền Tây thoát nghèo, thu nửa tỷ đồng mỗi năm.



    Ông Chau Sóc Kim, người dân tộc Khmer, quê ở ấp An Thuận, xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, An Giang là người đầu tiên nuôi rắn theo mô hình bán hoang dã, mang lại hiệu quả đáng khích lệ.

    Theo lời ông, hai vợ chồng trước đây chuyên sống bằng nghề ruộng rẫy nhưng gia đình lúc nào cũng thiếu trước hụt sau. Đã vậy, ông lại không may bị tai biến phải nằm viện suốt 1 năm trời nên khó khăn càng chồng chất. Sau khi khỏi bệnh, ông định tìm một việc gì nhẹ nhàng phù hợp với sức khỏe, nhưng tìm mãi vẫn không được.

    Một hôm, nghe bạn bè kể về việc nuôi rắn làm giàu nên ông đã bỏ ra nhiều thời gian tìm đến các chủ hộ nuôi rắn hổ hèo để tham quan và học hỏi về kỹ thuật chăm sóc. Sau khi tìm hiểu kỹ về chuồng trại, con giống, nguồn thức ăn, cách cho rắn sinh sản, ông quyết định chọn nghề nuôi rắn để mưu sinh, vì nghề này phù hợp với sức khỏe và hoàn cảnh của gia đình ông.

    Ngay từ ngày đầu khởi nghiệp ông đã có những ý tưởng táo bạo là nuôi rắn tự nhiên ngoài vườn chứ không nuôi lồng, chuồng như những nơi mà ông đã tham quan. Theo ông, rắn là loài động vật hoang dã, nếu nuôi chuồng sẽ chậm lớn, tốn nhiều thức ăn và chất lượng thịt chắc chắn không bằng nuôi tự nhiên.

    Từ ý tưởng đó, vợ chồng ông đã vét hết số tiền dành dụm, cộng thêm với tiền vay mượn được khoảng 100 triệu đồng để đầu tư. Ông thiết kế một hàng rào kiên cố bằng gạch, quanh khu vườn nhà với diện tích trên 1.000 m2. Sau đó, ông Chau Sóc Kim lại lặn lội tìm mua 40 kg rắn giống gồm 4 loại không nọc độc như hổ ngựa, hổ hèo, hổ hành và rắn lãi đem về thả nuôi.

    Để tạo môi trường tự nhiên và thân thiện với loài bò sát, ông cho xây hai hàng hộc dài bằng gạch, tạo thành những hang nhân tạo vừa kín đáo vừa yên tĩnh cho rắn tự do ra vào đẻ trứng. Ngoài ra, bồn nước, cỏ dại và cây bóng mát cũng được bố trí cho rắn trú ẩn và tự tìm kiếm thức ăn.



    Rắn thường quấn trên cây để lột vỏ. Ảnh: Ngọc Trinh.

    Theo khẳng định của ông Kim, nuôi rắn theo mô hình bán hoang dã sẽ ít tốn thức ăn hơn nuôi chuồng. Cứ vài ba ngày ông lại mua vài chục cân ếch nhái với giá rẻ rồi thả vào vườn cho chúng tự sinh tự diệt theo quy luật tự nhiên. Ban đêm, ông lắp đèn để dụ châu chấu, cào cào đến làm mồi cho ếch nhái. Sau đó, chính những loài này lại trở thành thức ăn cho rắn.

    Từ cách nuôi đó, số lượng rắn đã tăng dần lên. Theo ước tính, khu vườn của ông hiện có khoảng 2.000 con rắn thương phẩm và rắn giống. Để lấy ngắn nuôi dài, ông tuyển chọn những con lớn bán dần với giá từ 200.000 đến 500.000 đồng/kg tùy theo loại. Giá cao nhất là hổ hèo (còn gọi ráo trâu) sẽ dao động từ 500.000 đến 900.000 đồng/kg. Ngoài ra ông còn bán rắn hổ hèo bố mẹ với giá từ 4 - 5 triệu đồng/cặp và rắn con 300.000 - 500.000 đồng/con.

    Chỉ sau hơn một năm phát triển mô hình nuôi thả rắn, ông thu 180 triệu từ đợt rắn đầu tiên. Đến năm 2013, sau khi trừ hết các chi phí, ông còn lời 400 triệu đồng. Năm nay, ngoài thu nhập từ rắn giống, ông còn chăm chút cho đàn rắn thịt để tung ra thị trường vào dịp Tết, hứa hẹn đem lại nguồn doanh thu trên 600 triệu đồng.

    Bà Diễm Châu, vợ ông Kim cho biết gần Tết, giá rắn thương phẩm tăng cao, thương lái tìm mua với số lượng lớn nên chị hy vọng thu nhập năm nay sẽ cao hơn năm ngoái. Còn ông Kim phấn khởi chia sẻ đang tích lũy vốn để mở thêm diện tích nuôi với quy mô lớn hơn.


    Phòng Bảo vệ rừng và Bào tồn thiên nhiên, (thuộc Chi cục Kiểm lâm An Giang) cho biết, địa phương hiện có khoảng 10 hộ nuôi rắn được Chi cục thường xuyên kiểm tra, quản lý và cấp giấy phép, trong đó có hộ ông Chau Sóc Kim.

    Đơn vị này cũng tạo điều kiện cho người nuôi vận chuyển, tiêu thụ ra thị trường trong và ngoài tỉnh một cách dễ dàng, nhằm giúp bà con xóa đói giảm nghèo hiệu quả.

    Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

    'Phù thủy' trồng mai ghép ra tiền tỷ

    Anh Mã Văn Phương (khu phố 7, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức) quyết bám nghề trồng mai, và được mệnh danh là “phù thủy” trồng mai ghép.


    Anh Mã Văn Phương hàng ngày nâng niu, chăm sóc vườn mai.


    Tại khu phố 7, phường Hiệp Bình Chánh, anh Mã Văn Phương được xem là "thổ địa" nên được nhiều người biết đến, và vườn mai của anh cũng là một trong số ít vườn mai còn sót lại giữa khu dân cư đông đúc.

    Thu nhập tiền tỷ

    Lúc chúng tôi đến anh Phương vừa làm xong công việc ngoài vườn với mồ hôi nhễ nhại. Anh cho biết nghề trồng mai này bận rộn quanh năm, dù chỉ thu hoạch một vụ tết. Hiện nay thời điểm gần cuối năm nên công việc của anh càng bận hơn.

    Theo anh Phương vào thăm vườn, chúng tôi không khỏi trầm trồ với những gốc mai với đủ những vóc dáng khác nhau. Nhiều gốc mai hàng chục năm tuổi, được anh chăm sóc kỹ nên cây phát triển xanh tốt. Anh Phương cho biết, tại vườn mai nhà anh các gốc mai giá hàng chục triệu đồng là không hiếm, có nhiều gốc khi khách đến thăm rất mê nhưng không dám mua mà chỉ thuê về trưng.

    Trên mảnh vườn với diện tích hơn 1.600 m2 của mình, anh Phương trồng hơn 1.000 gốc mai ghép để cung cấp cho thị trường tết. Bên cạnh đó, anh còn thuê thêm một mảnh đất diện tích 2.200 m2 ở trong khu vực để trồng mai đất với trên 1.000 gốc. "Những năm gần đây, thị trường mai tết ảm đạm, người mua ít, thay vào đó người thuê mai về trưng tết ngày càng nhiều hơn, nên không thể… bán đứt được", anh Phương tâm sự.

    Cho tới nay, trung bình mỗi năm vườn mai nhà anh có đến vài trăm chậu được người dân, xí nghiệp, công ty thuê về trưng. Theo anh Phương, việc thuê lại như vậy giá chỉ bằng khoảng một nửa so với bán, do đó nhìn chung thu nhập của gia đình bị ảnh hưởng. "Do khó khăn chung, nên khách hàng họ có nhu cầu vậy thì mình vẫn sẵn sàng đáp ứng. Mình làm theo nhu cầu của thị trường mà, tùy theo lúc mà mình cần có điều chỉnh phù hợp", anh Phương chia sẻ thêm.

    Nói về kỹ thuật chăm sóc mai, anh Phương thổ lộ: "Cây mai ghép là cây mai kiểng, nên khâu chăm sóc khá cầu kỳ. Nhiều người mua cây mai ghép về trồng do chăm sóc chưa đúng kỹ thuật nên mai hay bị chết, nhất là nhánh mai ghép là mai màu trắng.

    Có nhiều giống mai ghép, như cây mai xanh Phước Lộc Thọ, mai Huỳnh Tỷ, mai 48 cánh, mai 120 - 150 cánh... Do cây còn nhỏ, các năm đầu có thể rụng trên 50% nụ hoa, nhưng đến lúc cây già cỡ 2-3 năm trở lên, sẽ đậu được nhiều hoa hơn. Các giống này cần chăm sóc đặc biệt, đến tháng 9-10 âm lịch, phải bón thúc thêm phân DAP hay phân tổng hợp NPK với tỷ lệ lân cao để kích thích ra nhiều hoa".

    Cũng nhờ có kinh nghiệm trong lĩnh vực trồng mai và làm lâu năm trong nghề nên so với các nông dân khác, anh Phương vẫn sống khỏe nhờ trồng mai. Lượng khách hàng đến thuê, mua mai nhà anh trong dịp tết vẫn ổn định. "Vào dịp tết, nhiều công ty, xí nghiệp, ngân hàng thường đến vườn thuê mai về trưng, hết tết mình lại chở về chăm sóc. Khách hàng của mình dạng này ngoài tập trung tại thành phố có nhiều người ở tận Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu…", anh nói.

    Bên cạnh đó, do là người có kinh nghiệm lâu năm trong nghề cũng như có cách tạo dáng, chăm sóc mai tốt nên những năm gần đây có nhiều người mang mai đến vườn gửi nhờ anh chăm sóc với số lượng vài trăm chậu. Anh cho biết hiện trong vườn mai nhà anh có hơn 300 chậu mai được khách gửi nhờ chăm sóc. Với các chậu mai này anh lấy phí chăm sóc từ 1 - 5 triệu đồng/năm/gốc.

    Quyết không bỏ nghề

    Trao đổi với chúng tôi, anh Mã Văn Phương cho biết, trước đây trong khu vực này nổi tiếng về nghề trồng mai. Vào thời hưng thịnh, khu phố này có đến vài chục hộ trồng. Đó là thời điểm cách đây khoảng chục năm trước, khi ấy mai là loại hoa cảnh chính trong dịp tết nên người mua rất đông. Nhưng dần dần do mất mùa, do đô thị hóa nên người dân chặt bỏ mai trồng thứ khác hoặc xây nhà trọ cho thuê. Hiện nay chỉ còn vài hộ trồng mai, quy mô vườn cũng chỉ từ 100 đến 200 m2. Riêng vườn mai nhà anh hiện được xem là vườn lớn nhất tại khu vực này.

    Có nhiều năm mai mất mùa, người mua ít, bản thân anh từng có ý định bỏ nghề, nhưng với 25 năm gắn bó với cây mai nên anh không đành bỏ. Đối với anh, nghề trồng mai đã ăn sâu vào máu thịt. Vì vậy dù thời điểm tiêu thụ mai chỉ rộ trong dịp tết nhưng hàng ngày anh đều ra vườn chăm chút tỉ mỉ từng gốc mai. Đó không chỉ là công việc kiếm tiền mà còn là đam mê, là niềm vui của anh.

    Để tồn tại với nghề, anh Phương cho biết, ngoài kinh nghiệm từ thực tế sản xuất anh thường xuyên hỏi kinh nghiệm, những cách làm hay, làm mới trong sản xuất, kinh doanh. Theo anh, hiện nay đã qua cái thời người dân dành nhau mua từng gốc mai. Người tiêu dùng càng lúc càng khó tính hơn, vì vậy ngoài việc có kỹ thuật khéo tạo các thế mai đẹp thì cần nhạy bén, khéo léo trong kinh doanh. Đặc biệt đó là cách cư xử với khách hàng của mình.

    Anh chia sẻ: "Ở thời điểm kinh tế khó khăn này mình phải biết chia sẻ với nhau, tùy từng lúc mà mình nên hạ giá sản phẩm để thu hút khách hàng. Thà mình chịu thu nhập thấp một ít để giữ mối khách hàng. Phải hai bên cùng có lợi mới tồn tại lâu dài được".

    Anh Phương cho chúng tôi biết thêm, mới đây anh đã vay 1,5 tỷ đồng với lãi suất thấp để đầu tư, phát triển vườn mai và yên tâm giữ nghề. "Ai bỏ cây mai thì bỏ chứ đối với tôi hiện chưa có ý nghĩ đó.

    Cả đời gắn với cây mai và hiện nó đang cho thu nhập ổn định nên tôi rất yên tâm đầu tư vào nó. Khi cây mai còn mang lại giá trị cao, mình còn có kỹ thuật, còn được khách hàng tin tưởng, gởi gắm thì mình vẫn còn gắn với nghề dù biết có nhiều cây khác mang lại giá trị cao hơn", anh Phương nói.

    Nhờ biết kết hợp nhiều cách làm nên so với các vườn mai khác, vườn mai nhà anh Phương vẫn cho thu nhập cao. Anh Phương cho biết, vào năm mất mùa, giá thấp thì anh vẫn thu được khoảng 600 triệu đồng, còn năm được mùa, được giá thì thu nhập trên 1 tỷ đồng.

    Bên cạnh đó, vào những dịp tết, vườn mai nhà anh còn tạo công ăn việc làm thời vụ cho hơn 50 lao động địa phương. Với những kết quả đạt được liên tục trong những năm qua, anh Phương được bầu chọn là nông dân sản xuất giỏi cấp thành phố và từng 2 lần được bầu chọn là nông dân sản xuất giỏi cấp Trung ương.

    Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014

    Khá lên nhờ nuôi trồng hàng độc: Chàng trai Đà Lạt và đặc sản baby

    Cách nay hai năm, Đà Lạt xuất hiện hàng loạt loại củ quả mà muốn mô tả cho dễ hiểu thì tên gọi thường phải kèm chữ “baby” hoặc tên những loại trái cây nhỏ nhắn.


    Nguyễn Thành Nguyên với "đặc sản baby" vừa nhổ lên.


    Cầm trên tay những loại nông sản vừa quen vừa lạ như cà chua cherry, dưa leo baby, cà rốt baby... ít ai ngờ đấy là sản phẩm từ trang trại của một "nông dân" trẻ măng: Nguyễn Thành Nguyên.

    Cái gì chưa có?

    Nguyên sinh ra tại Đà Lạt, hoàn thành chương trình phổ thông và đại học tại Mỹ. Năm 2011, Nguyên về lại Việt Nam làm ở mảng xuất khẩu trái cây cho một công ty tại TP.HCM.


    Củ cải đỏ ở trang trại của Thành Nguyên.


    Đầu năm 2012, Nguyên thấy mình cần về lại Đà Lạt làm việc vì không muốn mẹ phải sống một mình trong khi bố đang đi làm xa và cậu em trai cũng đang du học.

    Nguyên bàn với bố mở trang trại ở tận Đạ Nghịt (huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng) cách xa Đà Lạt khoảng 20km. Nguyên học kinh tế nên khi nhìn bãi đất mênh mông giữa những vườn cà phê cằn cỗi anh không biết bắt đầu từ đâu. "Tôi muốn làm một nông dân theo kiểu tôi đã từng thấy ở Mỹ nhưng thật sự hoang mang không biết vạch xuất phát nằm ở đâu", Nguyên nói.

    Nguyên chạy xe vòng quanh các ruộng rau từ Đà Lạt đến các vùng lân cận và một ý nghĩ nảy lên trong Nguyên rằng cứ kiếm nông sản nào ở Đà Lạt chưa có hoặc ít có thì làm. Nguyên lại nhớ đến những quầy nông sản trong siêu thị tại Mỹ. Quầy cà chua có khoảng vài chục loại được xếp từ nhỏ đến lớn và cách dùng khác nhau, rất đa dạng. Cà rốt, khoai tây, dưa leo cũng tương tự vậy.

    Chắp nối hai ý nghĩ, Nguyên phát hiện sản phẩm của xứ rau Đà Lạt còn đơn điệu. Cà chua, cà rốt, khoai tây, củ cải, dưa leo... trăm nơi một kiểu. Phát hiện nho nhỏ đã mở ra cho Nguyên con đường khởi nghiệp. Anh lên phương án trồng những loại rau củ kích cỡ nhỏ đang được ưa chuộng ở các nước phát triển nhưng chưa được biết đến nhiều tại Việt Nam. Ý tưởng nảy ra, Nguyên lập tức liên lạc với các nông trại tại Mỹ mà lúc còn học đại học anh hay đến học việc để mua giống nhập về Đà Lạt.

    Nguyên giải thích cho quyết định trồng những loại rau củ tí hon của mình: "Nếu trồng cà rốt, trồng bắp cải chắc chắn một thằng trẻ mới tập làm nông không thể nào bằng những nông dân đã có hàng chục năm kinh nghiệm. Các kênh phân phối như siêu thị, chợ đã chật kín, các doanh nghiệp sản xuất nông sản tại Lâm Đồng phải chen chân tìm chỗ đứng. Phải chọn cách làm khác, tôi chọn việc làm cho nông sản Đà Lạt trở nên đa dạng". Lúc gửi email mua giống, chủ các trang trại tại Mỹ đồng ý chia sẻ hạt giống nhưng tỏ ý đầy nghi ngờ về khả năng thành công của anh.

    Nguyên tin rằng con đường mình chọn đi là riêng biệt. Độc, lạ là hai tiêu chí khởi nghiệp anh đặt ra. Tiếp theo Nguyên tiếp tục đi tìm những nông dân trẻ để cùng hợp tác. Nguyên nói: "Giống mới hoàn toàn nên phải cần người trẻ để tiếp thu quy trình nhanh hơn và có sáng kiến để giống lạ mau thích ứng với thổ nhưỡng địa phương".

    Cà chua trắng tí hon vừa được trồng ở trang trại.

    Sau hai năm, Nguyên đang có trong tay hơn 5 ha trồng khoảng 10 loại nông sản tí hon như dưa leo baby, cà chua cocktail, cà chua cherry, cà chua trắng, cà chua đen, củ cải đỏ, cà rốt baby...

    Đến nay mỗi tháng nông trại của Nguyên cung ứng khoảng 5 tấn rau củ, có mặt ở các siêu thị, cửa hàng và những nhà hàng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế trên cả nước.

    "Đặc sản baby" và ước mơ lớn

    Có giống mới lạ là một chuyện nhưng để trồng được trên đất Đà Lạt là chuyện khác. Bắt tay vô làm, Nguyên chủ quan khi quá tin vào những cuốn thông tin hướng dẫn do nhà sản xuất giống ở nước ngoài cung cấp mà không lưu ý đến thổ nhưỡng Đà Lạt.

    Mùa đầu tiên, Nguyên xuống giống ồ ạt và ôm "quả đắng", đa số sản phẩm làm ra không đạt chất lượng: dưa leo baby ruột chua như chanh, cà chua cocktail chưa chín đã nứt vỏ, hay củ cải đỏ đến kỳ thu hoạch lột vỏ ăn thử thì không có vị, nhạt như nước. Như chiếc xe đang chạy sụp ổ gà chựng lại, anh vội bàn với các cộng sự của mình đi tìm hiểu nguyên nhân.

    Hai vụ tiếp theo, thất bại vẫn đeo bám nhóm làm việc của Nguyên, nhưng đến cuối năm 2012 thì mọi chuyện đã khác. Và Nguyên có trong tay những quy trình chuẩn do chính mình và các cộng sự xây dựng. Mô tả những khó khăn ngày đầu, anh nói: "Mình đi con đường mới thì phải chấp nhận vất vả, mày mò do giống chưa được thử nghiệm ở Đà Lạt trước đó".

    Có được rau củ đạt chuẩn, nhưng để bán được là chuyện khó, nhất là khi ở Việt Nam chưa nhiều người biết đến xu hướng dùng những loại củ quả tí hon như một loại trái cây đang phổ biến ở nhiều nước. Có người còn đồn thổi những loại trái cây tí hon là do đột biến gen mà có.

    Nguyên kể những ngày đầu mang loại nông sản vừa lạ vừa quen đi chào bán, khách hàng nhìn Nguyên với ánh mắt nghi ngại. Có ông chủ nhà hàng cầm củ cà rốt baby ngang mặt săm soi rồi cười. Nguyên lấy củ cà rốt nhỏ xíu nhai ngon lành, giải thích đó là loại nông sản dành để ăn sống. Cứ thế, Nguyên và cộng sự đi khắp nơi chào hàng.

    Chào hàng xong, Nguyên lắng nghe doanh số tăng lên từng nhịp. Cứ mỗi ngày bán thêm dù chỉ 1kg Nguyên cũng mừng vì những món nông sản tí hon quen quen lạ lạ đang có thêm người biết đến.

    Đi dọc những hàng cà chua baby thẳng tắp được trồng trên giá thể, Nguyên bảo: "Rau củ tí hon dùng để ăn sống, Nguyên muốn phải sạch ngay từ trên cây nên tiền lãi bán rau Nguyên đổ ra đầu tư nghiên cứu trồng trên giá thể".

    Ở nông trại của Nguyên, đa số rau củ được trồng trên những giá thể từ xơ dừa đã được làm sạch và chăm sóc bằng hệ thống phun sương, tưới nhỏ giọt. Trồng theo cách này cũng là để Nguyên tiết giảm tối đa lượng phân bón có thể tồn dư trong nông sản của mình.

    Đứng từ đỉnh cao nhất của nông trại nhìn ra những khu vườn cách đó không xa, hàng chục nông dân kéo dây đi bơm thuốc. Thuốc theo những cơn gió khó tính, quật đi quật lại vào người bơm.

    Nguyên quay lại nói: "Người tiêu dùng chưa bị ảnh hưởng thì nông dân đã bị trước rồi. Làm nông như vậy là bán sức kiếm sống chứ không phải bán rau đâu". Dứt lời, Nguyên lại kể say sưa về những nông trại kiểu Mỹ. Đó là giấc mơ không dứt và Nguyên đang đi tìm nó, từng bước một.

    Nguyên cho hay anh đang từng bước biến trang trại của mình thành "trung tâm" liên kết với nông dân. Nguyên sẽ tìm đến những hội chợ nông sản và tìm hiểu giống mới, những thành quả của nông nghiệp kỹ thuật cao các nước.

    Nếu giống nào lạ, có thể phù hợp thì mang về Đà Lạt tìm hiểu, xây dựng quy trình theo quy chuẩn sản xuất nông sản sạch. Sau đó trang trại sẽ chuyển giao cho nông dân liên kết và hỗ trợ kỹ thuật.

    Mục tiêu của anh là mỗi năm Đà Lạt sẽ xuất hiện hai giống mới có nguồn từ trang trại của mình. Năm 2014, Nguyên đã hoàn thành chỉ tiêu khi đón lứa cà chua trắng đầu tiên đưa ra thị trường và chuẩn bị đón những quả cà chua đen. Cà chua trắng và đen đều có kích cỡ nhỏ hơn cà chua bình thường trên thị trường từ năm đến mười lần.

    Thứ Tư, 24 tháng 12, 2014

    Ông chủ vườn rau tiền tỷ nuôi quyết tâm... "hâm" đến cùng

    Đang làm chủ một xưởng cơ khí có thu nhập ổn định, anh Tô Quang Dũng (phường 8, TP.Đà Lạt, Lâm Đồng) quyết định đóng xưởng để đi làm… rau. Ai cũng bảo anh “hâm”, còn anh thì quyết tâm “hâm” đến cùng.
    Lý do là cách đây 4 năm, anh Dũng gặp lại một người bạn cũ: “Bạn mình ngày xưa nghèo lắm nhưng lúc đó đã là tỷ phú. Anh ấy chỉ trồng rau. Còn mình, làm cơ khí chỉ thu nhập ổn định chứ không thể giàu. Nhà mình có tới 4ha đất nông nghiệp bỏ trống lâu nay nghĩ mà phí quá. Vậy là tôi quyết tâm đóng xưởng...”.

    Anh Dũng kể, lúc mới về làm nông, chẳng có một chút kinh nghiệm, lại chỉ biết làm nông nghiệp thuần túy nên mấy vụ đầu năng suất cây trồng kém, hàng trăm triệu đồng của gia đình “đội nón” ra đi. Vốn gần như “cụt”, nhiều người đã nghĩ anh Dũng sẽ phải quay lại nghề cũ. Nhưng anh ấy lại quyết tâm làm đến cùng, và là làm nông nghiệp công nghệ cao. Anh chạy vạy khắp nơi vay mượn tiền bạc, đầu tư nhà kính, rồi tham gia các lớp tập huấn trồng rau VietGAP, mời chuyên gia từ Hà Lan về hướng dẫn kỹ thuật trồng các loại rau quả...

    Nhờ được học bài bản, anh Dũng đã bắt đầu có những vụ rau, quả bội thu cả về năng suất lẫn chất lượng. Thế nhưng, anh lại đối mặt với khó khăn khác là đầu ra, sản phẩm rớt giá. “Đấy lại thêm một bài học cho tôi. Làm nông nghiệp không chỉ sản xuất ra sản phẩm là đủ mà phải biết lựa chọn cây trồng thích hợp với từng thời điểm nhất định; đồng thời phải biết tạo thương hiệu, tìm cho mình một thị trường tiêu thụ ổn định thì mới có thể phát triển bền vững”- anh Dũng chia sẻ. Và đấy cũng là lý do mà anh Dũng thành lập cơ sở sản xuất rau sạch Trường Phúc Farm, rồi tự quảng bá và tìm thị trường riêng cho mình.


    Anh Dũng bên vườn rau tiền tỷ của mình.

    Chẳng bao lâu sản phẩm rau sạch Trường Phúc Farm được nhiều người biết đến. Bằng cách luôn giữ chữ tín, luôn đặt chất lượng sản phẩm lên hàng đầu, Trường Phúc Farm đã nhanh chóng được nhiều cửa hàng rau VietGap ở TP.Hồ Chí Minh biết đến, tín nhiệm và đặt hàng ngày càng nhiều. Có lúc sản xuất không kịp để cung ứng cho các cửa hàng.

    Với quỹ đất 4ha, ban đầu Trường Phúc Farm cho ra các loại rau ăn lá như cải các loại, bó xôi, xà lách… cho hiệu quả 400-500 triệu/ha/năm. Bên cạnh đó, cơ sở còn trồng giống cà chua cao cấp (giống cà chua sinh trưởng vô hạn, có tuổi thọ gần 1 năm và cho trái liên tục nên đạt năng suất cao). Chỉ với 1ha cà chua này, mỗi năm anh Dũng có khoảng 25 tấn quả, thu về khoảng 500 triệu đồng.

    Năm 2011, Trường Phúc Farm liên kết với Công ty Đà Lạt G.A.P, sản xuất ớt sừng trâu xuất khẩu sang Nhật Bản. Từ năm 2011-2013, cơ sở đã ký kết với Nhật Bản sản xuất trên diện tích 500m2, năng suất trung bình 70 tấn vụ/năm, với giá niêm yết 16.000 đồng/kg. Như vậy, mỗi năm Trường Phúc Farm đã thu về cả tỷ đồng chỉ từ 5 sào ớt sừng trâu. Đầu năm nay, phía Nhật Bản đã ký kết tăng gấp đôi diện tích trồng ớt với anh Dũng. Ước tính vụ ớt này anh Dũng sẽ bỏ túi khoảng hơn 2 tỷ đồng.

    Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

    Nuôi gà đá, thu tiền tỷ ở miền Tây

    Mỗi con gà đá mà nông dân Bến Tre nuôi có giá gấp 5 đến 10 lần gà thương phẩm. Cá biệt có con khi đã ăn được 1-2 độ thì giá trị đội lên 15-20 triệu đồng.

    Mấy năm gần đây, tại một số tỉnh ĐBSCL, đặc biệt là Bến Tre nổi lên phong trào nuôi gà đá. Ông Ngô Văn Tươi ở ấp Vĩnh Phú, xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách – Bến Tre, cho biết, ngoài việc kinh doanh cây giống và hoa kiểng ra, ông dùng thời giờ nhàn rỗi để nuôi khoảng chục con gà đá phía bên hông nhà, mỗi tháng xuất bán 2-3 con cũng kiếm lời trên 10 triệu đồng.

    "Nuôi gà đá chỉ từ 7 - 8 tháng là đạt trọng lượng 2,2 đến 2,5 kg/con, đủ chuẩn xuất chuồng bán. Nếu nuôi được nhiều con gà hay, dáng đẹp, nhanh nhẹn, tung đòn giỏi thì tiền bán càng cao", ông Tươi cho biết.


    Trại nuôi gà đá của anh Nguyễn Văn Phúc ở xã Sơn Định, Chợ Lách.

    Đa số người nuôi gà đá hiện nay đều cho biết, họ có thu nhập cao với công việc này mà lại nhàn hơn so với các nghề khác. Theo ông Tươi, một người muốn có kinh nghiệm chăm sóc và biết chọn gà, xem tướng mạo gà chỉ cần nuôi vài bầy là thạo. Còn để có gà hay, số lượng gà tốt nhiều trong bầy nuôi thì việc lai tạo giống là khâu quan trọng nhất. Muốn có được những con gà chiến, người nuôi phải chú ý đến con bố mẹ, nhất là con mái phải khoẻ mạnh, hung dữ, nhanh nhẹn. Ngoài ra, gà mẹ phải lớn khỏe, thường đạt trọng lượng từ 2,8 - 3,5kg. Như vậy khi lai tạo tỷ lệ gà hay trong bầy sẽ nhiều hơn.


    Mỗi con gà đá bình thường có giá cao gấp 5 đến 10 lần gà thương phẩm. Ảnh: Ngọc Trinh.

    Những người nuôi số lượng nhiều mỗi năm có thể chọn được hơn 150 con gà chiến trong tổng số khoảng 80 -100 đàn gà đẻ. Khi tuyển chọn xong, họ sẽ cho nhốt riêng và "o bế" cho lớn để thành gà đá.

    Nuôi gà đá khác với gà thịt là nhốt riêng từng con trong một chuồng rộng 1 m2. Mỗi ngày phải vệ chuồng trại sạch sẽ, thức ăn chủ yếu là lúa, nước uống lúc nào cũng có sẵn trong chuồng. Chính vì được chăm sóc kỹ nên đa phần gà đá có sức đề kháng rất cao, ít bệnh hơn so với gà thông thường.

    Mỗi con gà đá có giá từ vài trăm đến vài triệu đồng. Còn nếu săn được những con gà "thiện chiến" của người khác về thuần dưỡng, một thời gian có thể bán lại cho các tay lão luyện với giá hàng chục triệu đồng. Gà đá mỗi con mỗi vẻ, màu sắc đa dạng, khác nhau, như gà điều, gà xám, gà ô, gà tía, gà chuối...

    Anh Nguyễn Văn Phúc ở xã Sơn Định, Chợ Lách đang sở hữu trại nuôi gà đá từ 300 - 500 con/năm, cho biết, nuôi gà đá tuy rất công phu nhưng dễ kiếm tiền. Song người nuôi phải có kinh nghiệm, nhất là khả năng nhận diện về tướng mạo. Như phải chọn được những con gà hùng dũng, màu sắc bắt mắt, có chân cao, to khoẻ, vẩy ở chân đều, tiếng gáy trong và thanh.... và chăm sóc, nâng niu gà như người thân trong nhà.

    Theo anh Phúc, nuôi gà đá muốn mau lớn và thịt săn chắc quan trọng nhất ở khâu cho ăn. Gà đá khác với gà thương phẩm, lúc còn nhỏ phải ăn tấm, khi lớn lên cho ăn lúa ngâm trong nước 1 đêm để giúp dễ tiêu hóa và thịt săn chắc, ít mỡ gà mới nhanh nhẹn. Ngoài ra, nhiều người còn cho gà ăn thêm giun, thằn lằn, dế, lòng đỏ trứng, thịt bò, tép, trứng vịt lộn, chuối xiêm... để bồi dưỡng và tăng cường sức chiến đấu.

    Hiện nay, trại nuôi của anh Phúc chủ yếu bán cho thị trường nước ngoài (Campuchia) để phục vụ trò chơi giải trí trong các trường gà. Giá bán mỗi con gà đá của anh thấp nhất là 1 triệu đồng, cao nhất lên 25 triệu đồng. Doanh thu từ trại gà này mỗi năm lên cả tỷ đồng.


    Con gà chuối của anh Phúc đá thắng 3 độ, đang được giới chơi ngã giá 25 triệu đồng nhưng anh chưa chịu bán. Ảnh: Ngọc Trinh.

    Ông Trương Phước Cáo, gần 70 tuổi, một chuyên gia nuôi gà đá ở xã Phú Phụng – Chợ Lách cho biết, một con gà hay phải có tầm vóc to lớn, cơ bắp khoẻ mạnh, chân cao, cựa đều, mỏ to và nhọn, mắt nhỏ và sâu, lớp vảy ở chân dầy và cứng. Nhiều người mê gà không những ở tiếng gáy, ở ngoại hình, nhất là bộ lông hấp dẫn, mà còn ở cách đá. Mỗi thế đá của con gà độ có một bản lĩnh riêng. Có con tung đòn như vũ bão, có con lâm trận cả giờ, chân run rẩy nhưng vẫn lì lợm không đầu hàng trước đối thủ.

    Để có được một con gà độ đủ sức đưa ra "chiến trường", người nuôi phải xổ liên tục (cho đá thử trước), xem chân, xem tướng, coi vẩy, coi mắt... để đánh giá khả năng chịu đòn và tránh đòn, đặc biệt là đòn đá phải đẹp và hiểm. Sau đó mới tỉa lông ở các vùng đầu, cổ, ức, đùi và vô nghệ thường xuyên cho thịt săn chắc, phòng khi đối phương đâm cựa sắt.

    Theo một lãnh đạo phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách, toàn huyện có trên 100 hộ chuyên nuôi gà đá bán, mang lại lợi nhuận rất cao, hơn cả với nghề sản xuất kinh doanh cây giống, hoa kiểng nổi tiếng trong huyện. Ngành nông nghiệp cũng đang khuyến khích mô hình này, vì đây là nghề không cần đầu tư, chỉ cần người nuôi có kinh nghiệm và tay nghề giỏi.

    Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014

    Nuôi gà đá, thu tiền tỷ ở miền Tây

    Mỗi con gà đá mà nông dân Bến Tre nuôi có giá gấp 5 đến 10 lần gà thương phẩm. Cá biệt có con khi đã ăn được 1-2 độ thì giá trị đội lên 15-20 triệu đồng.


    Mấy năm gần đây, tại một số tỉnh ĐBSCL, đặc biệt là Bến Tre nổi lên phong trào nuôi gà đá. Ông Ngô Văn Tươi ở ấp Vĩnh Phú, xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách – Bến Tre, cho biết, ngoài việc kinh doanh cây giống và hoa kiểng ra, ông dùng thời giờ nhàn rỗi để nuôi khoảng chục con gà đá phía bên hông nhà, mỗi tháng xuất bán 2-3 con cũng kiếm lời trên 10 triệu đồng.

    "Nuôi gà đá chỉ từ 7 - 8 tháng là đạt trọng lượng 2,2 đến 2,5 kg/con, đủ chuẩn xuất chuồng bán. Nếu nuôi được nhiều con gà hay, dáng đẹp, nhanh nhẹn, tung đòn giỏi thì tiền bán càng cao", ông Tươi cho biết.


    Trại nuôi gà đá của anh Nguyễn Văn Phúc ở xã Sơn Định, Chợ Lách.

    Đa số người nuôi gà đá hiện nay đều cho biết, họ có thu nhập cao với công việc này mà lại nhàn hơn so với các nghề khác. Theo ông Tươi, một người muốn có kinh nghiệm chăm sóc và biết chọn gà, xem tướng mạo gà chỉ cần nuôi vài bầy là thạo. Còn để có gà hay, số lượng gà tốt nhiều trong bầy nuôi thì việc lai tạo giống là khâu quan trọng nhất. Muốn có được những con gà chiến, người nuôi phải chú ý đến con bố mẹ, nhất là con mái phải khoẻ mạnh, hung dữ, nhanh nhẹn. Ngoài ra, gà mẹ phải lớn khỏe, thường đạt trọng lượng từ 2,8 - 3,5kg. Như vậy khi lai tạo tỷ lệ gà hay trong bầy sẽ nhiều hơn.


    Mỗi con gà đá bình thường có giá cao gấp 5 đến 10 lần gà thương phẩm. Ảnh: Ngọc Trinh.

    Những người nuôi số lượng nhiều mỗi năm có thể chọn được hơn 150 con gà chiến trong tổng số khoảng 80 -100 đàn gà đẻ. Khi tuyển chọn xong, họ sẽ cho nhốt riêng và "o bế" cho lớn để thành gà đá.

    Nuôi gà đá khác với gà thịt là nhốt riêng từng con trong một chuồng rộng 1 m2. Mỗi ngày phải vệ chuồng trại sạch sẽ, thức ăn chủ yếu là lúa, nước uống lúc nào cũng có sẵn trong chuồng. Chính vì được chăm sóc kỹ nên đa phần gà đá có sức đề kháng rất cao, ít bệnh hơn so với gà thông thường.

    Mỗi con gà đá có giá từ vài trăm đến vài triệu đồng. Còn nếu săn được những con gà "thiện chiến" của người khác về thuần dưỡng, một thời gian có thể bán lại cho các tay lão luyện với giá hàng chục triệu đồng. Gà đá mỗi con mỗi vẻ, màu sắc đa dạng, khác nhau, như gà điều, gà xám, gà ô, gà tía, gà chuối...

    Anh Nguyễn Văn Phúc ở xã Sơn Định, Chợ Lách đang sở hữu trại nuôi gà đá từ 300 - 500 con/năm, cho biết, nuôi gà đá tuy rất công phu nhưng dễ kiếm tiền. Song người nuôi phải có kinh nghiệm, nhất là khả năng nhận diện về tướng mạo. Như phải chọn được những con gà hùng dũng, màu sắc bắt mắt, có chân cao, to khoẻ, vẩy ở chân đều, tiếng gáy trong và thanh.... và chăm sóc, nâng niu gà như người thân trong nhà.

    Theo anh Phúc, nuôi gà đá muốn mau lớn và thịt săn chắc quan trọng nhất ở khâu cho ăn. Gà đá khác với gà thương phẩm, lúc còn nhỏ phải ăn tấm, khi lớn lên cho ăn lúa ngâm trong nước 1 đêm để giúp dễ tiêu hóa và thịt săn chắc, ít mỡ gà mới nhanh nhẹn. Ngoài ra, nhiều người còn cho gà ăn thêm giun, thằn lằn, dế, lòng đỏ trứng, thịt bò, tép, trứng vịt lộn, chuối xiêm... để bồi dưỡng và tăng cường sức chiến đấu.

    Hiện nay, trại nuôi của anh Phúc chủ yếu bán cho thị trường nước ngoài (Campuchia) để phục vụ trò chơi giải trí trong các trường gà. Giá bán mỗi con gà đá của anh thấp nhất là 1 triệu đồng, cao nhất lên 25 triệu đồng. Doanh thu từ trại gà này mỗi năm lên cả tỷ đồng.


    Con gà chuối của anh Phúc đá thắng 3 độ, đang được giới chơi ngã giá 25 triệu đồng nhưng anh chưa chịu bán. Ảnh: Ngọc Trinh.

    Ông Trương Phước Cáo, gần 70 tuổi, một chuyên gia nuôi gà đá ở xã Phú Phụng – Chợ Lách cho biết, một con gà hay phải có tầm vóc to lớn, cơ bắp khoẻ mạnh, chân cao, cựa đều, mỏ to và nhọn, mắt nhỏ và sâu, lớp vảy ở chân dầy và cứng. Nhiều người mê gà không những ở tiếng gáy, ở ngoại hình, nhất là bộ lông hấp dẫn, mà còn ở cách đá. Mỗi thế đá của con gà độ có một bản lĩnh riêng. Có con tung đòn như vũ bão, có con lâm trận cả giờ, chân run rẩy nhưng vẫn lì lợm không đầu hàng trước đối thủ.

    Để có được một con gà độ đủ sức đưa ra "chiến trường", người nuôi phải xổ liên tục (cho đá thử trước), xem chân, xem tướng, coi vẩy, coi mắt... để đánh giá khả năng chịu đòn và tránh đòn, đặc biệt là đòn đá phải đẹp và hiểm. Sau đó mới tỉa lông ở các vùng đầu, cổ, ức, đùi và vô nghệ thường xuyên cho thịt săn chắc, phòng khi đối phương đâm cựa sắt.

    Theo một lãnh đạo phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách, toàn huyện có trên 100 hộ chuyên nuôi gà đá bán, mang lại lợi nhuận rất cao, hơn cả với nghề sản xuất kinh doanh cây giống, hoa kiểng nổi tiếng trong huyện. Ngành nông nghiệp cũng đang khuyến khích mô hình này, vì đây là nghề không cần đầu tư, chỉ cần người nuôi có kinh nghiệm và tay nghề giỏi.

    Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

    Làm chơi mà thu trăm triệu từ nuôi gà “chạy bộ”

    Đó là cách làm của anh Võ Văn Tân, xã Hậu Thành (Cái Bè, Tiền Giang). Trước đây gia đình anh Tân có nuôi gà thả vườn nhưng chỉ vài con đến vài chục con, chủ yếu nuôi để dành khi có đám tiệc, hoặc lễ tết.

    Thấy gà thả vườn mau lớn, chất lượng thịt ngon, vốn đầu tư không nhiều và đặc biệt ít dịch bệnh hơn so với nuôi gà theo hình thức công nghiệp, anh bàn với gia đình đầu tư ít vốn sẵn có của gia đình và vay thêm của Ngân hàng Chính sách xã hội về đầu tư vào chăn nuôi gà. Từ đó đến nay, anh Tân gắn bó với nghề nuôi gà thả vườn đã gần 10 năm.

    Chỉ vào đàn gà gần 500 con hơn 2 tháng tuổi, đang phát triển tốt. Anh Tân cười tươi nói: "Đàn gà này nếu phát triển bình thường thì khoảng 2 tháng nữa là có thể bán được, con to cũng trên 2kg. Thời điểm cận Tết Nguyên đán nhu cầu người tiêu dùng nhiều, gà hút hàng, giá sẽ tăng cao. Năm nào cũng vậy, tôi canh đợt tết để xuất chuồng, vừa được giá cao, vừa có thêm thu nhập tiêu tết".




    Anh Tân cho gà ăn

    Tùy thời điểm, bình quân mỗi đợt anh Tân nuôi khoảng 400-1.000 con gà. Thức ăn chủ yếu là lúa, bắp, tấm cám và bổ sung thêm cỏ non. Anh Tân cho biết thêm, thông thường gà nuôi khoảng 4 -5 tháng là có thể bán ra thị trường. Nếu chăm sóc tốt, đảm bảo cung cấp đủ thức ăn và nước uống, gà có thể đạt trọng lượng hơn 2kg/con. Giá bán khoảng 60.000 đồng/kg là người nuôi có lãi, nhiều thời điểm khan hiếm, giá gà thịt có thể tăng 100.000 đồng/kg.

    Với anh Tân, nuôi gà thả vườn không quá khó, chủ yếu phải tuân thủ tiêm ngừa đầy đủ để phòng tránh một số bệnh thông thường như bệnh gum, dịch tả, thương hàn. Sau mỗi đợt xuất chuồng phải tiến hành vệ sinh vườn, rải vôi bột khử trùng, để vườn trống khoảng một tháng mới bắt đầu thả gà cho vụ nuôi kế tiếp.

    Ngoài ra, anh Tân còn tận dụng đất trống trồng thêm mít Thái, măng cụt, nhãn tiêu da bò... vừa tăng thêm thu nhập, vừa có bóng mát cho gà lại có cành cây cho gà leo trèo vận động, giúp gà khỏe mạnh. Hàng năm, sau khi trừ các chi phí, vườn cây ăn trái và việc chăn nuôi gà cũng mang về cho anh gần 100 triệu đồng.

    Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

    Thu nửa tỷ đồng từ trại gà Đông Tảo đầu tiên ở miền Tây

    Anh Trần Văn Toản, ở phường Long Hòa, quận Bình Thủy, TP. Cần Thơ, người tiên phong nuôi gà Đông Tảo ở miền Tây, hiện có thu nhập mỗi năm nửa tỷ đồng.


    Anh Toản quê ở Hưng Yên vào Cần Thơ lập nghiệp. Thấy ở đất Cần Thơ chưa ai nuôi loại gà này nên anh nảy ý định đưa về nuôi thử nghiệm.


    Hưng Yên là quê hương của giống gà Đông Tảo nên anh Toản có lợi thế thấy rõ vì đã nắm được kinh nghiệm nuôi loại gà này.


    Theo anh Toản, chuồng trại và cách thức nuôi, chăm sóc loại gà này cũng không quá phức tạp so với các giống gà khác.


    Một trong những khâu cần chú ý là tiêm vắc-xin cho gà con ngay khi vừa mới nở. Thức ăn cho gà con dưới 2 tháng tuổi, theo anh, phải ở dạng viên.


    Gà Đông Tảo là loài quen chạy nhảy, không quen nuôi nhốt, nên chuồng trại càng rộng càng tốt, gà sẽ nhanh lớn và thịt đảm bảo chất lượng hơn.


    6 - 7 tháng sau khi nuôi, gà sẽ đạt cân nặng 4,5 - 5 kg/con, đủ điều kiện bán thịt. Giá bán loại gà đặc sản này tại trang trại của anh Toản là 350.000 đồng/kg với gà trống và 300.000 đồng/kg với gà mái. Giá gà con mới nở một ngày là 120.000 đồng/con. Còn loại 1 tháng tuổi 220.000 - 230.000 đồng/con.


    Năm 2012, anh Toản đã thành lập trang trại Văn Toản, chuyên cung cấp con giống và gà thương phẩm cho các nhà hàng ở Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL. Hiện trang trại gà của anh được xem là có quy mô lớn nhất ở miền Tây, với số lượng gà Đông Tảo bán thịt và gà sinh sản trên 300 con. Ngoài ra, anh còn xuất bán hàng ngàn con gà giống cho người mua ở một số tỉnh lân cận như Sóc Trăng, Kiên Giang, Vĩnh Long, và cả TP.HCM.


    Có kinh nghiệm nuôi gà "chân khủng", anh Toản cho biết, việc chăm sóc gà Đông Tảo không khác gì các giống gà khác. Nếu chăm sóc tốt, mỗi năm 1 cặp gà có thể đẻ 3 lứa, mỗi lứa đẻ 8 đến 9 trứng, tỷ lệ ấp thành công 99%. Thường thì loại gà này sinh trưởng tốt, sức đề kháng cao, ít bệnh.


    Cách nhận biết những con gà Đông Tảo được xem thuần chủng và là hàng "khủng", theo người nuôi này, gà phải có đôi chân sùi, rất to, da đỏ hồng, dáng vẻ oai vệ. Về cân nặng, gà trống phải nặng gần 6 kg.


    Mỗi năm, anh Toản có doanh thu trên dưới 500 triệu đồng từ nuôi gà. Không chỉ nuôi gà Đông Tảo, anh Toản còn đang nhân giống loại gà chín cựa ghép từ Bắc Ninh rất thành công, với giá bán lên hàng triệu đồng mỗi con.
    Theo

    Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

    Làm giàu từ công nghệ Nhật và trái hồng Đà Lạt

    Đầu ra bế tắc, lợi nhuận kiếm được không đáng kể, thậm chí lỗ khiến ông Trần Phú Lộc (Đà Lạt) quyết định sang Nhật học cách sấy khô trái hồng, nhằm nâng cao chất lượng và giá trị cho loại nông sản này.


    Vốn là một cán bộ kỹ thuật của Công ty cổ phần rượu bia Đà Lạt nhưng khi về hưu, ông Trần Phú Lộc (Đà Lạt) vẫn luôn hứng khởi với công việc. Thay vì nghỉ ngơi, du lịch... ông lại ngày đêm chăm sóc vườn hồng của gia đình dưới một thung lũng cạnh cửa ngõ thành phố.

    "Công sức bỏ ra nhiều nhưng đến khi thu hoạch, hồng bán rẻ như cho, doanh thu bán ra không bù đắp được chi phí, trong khi trái cây này là đặc sản nổi tiếng của Đà Lạt. Chứng kiến cảnh tượng này nhiều năm khiến tôi đau xót vô cùng", ông Lộc bộc bạch.

    Cũng chính từ những nỗi niềm ấy, ông nhớ lại kỷ niệm khi đi công tác tại Nhật, chứng kiến nông dân nước bạn có thêm lợi nhuận bằng cách sấy khô quả hồng và xuất khẩu.

    "Mình cũng là người giống họ tại sao họ làm được mà mình lại không thử. Trong khi đó, đâu phải một mình tôi chịu thiệt mà người trồng ở Đà Lạt cũng chung hoàn cảnh. Nghĩ đến đấy, tôi quyết định quay trở lại nước Nhật để học bằng được cách sấy khô quả hồng của họ", ông Lộc chia sẻ.

    Hồng sấy khô theo công nghệ Nhật Bản tại gia đình ông Trần Phú Lộc. Ảnh: Quốc Dũng.


    Với quyết tâm đổi mới và thoát khỏi khó khăn, đầu năm 2014, ông Lộc quyết định chi một khoản tiền để qua Nhật học cách sấy hồng. Để thuận tiện cho việc tiếp cận, ông nhờ một người phiên dịch đi cùng. Tới Nhật, sau khi trình bày ý định học cách sấy hồng, ông được đối tác đón tiếp chu đáo và được hóa thân thành nông dân cùng ăn, ở, làm việc. Hằng ngày ông quan sát và ghi chép tỉ mỉ các công đoạn vào một cuốn sổ nhỏ.

    Cũng từ việc thâm nhập thực tế này, ông phát hiện, cách chăm sóc cây hồng ở Nhật hoàn toàn khác với nông dân Đà Lạt. Nếu ở Việt Nam trồng hồng là chăm sóc thân cây sao cho càng cao to càng tốt vì họ tin rằng sẽ đạt năng suất cao. Ngược lại, tại Nhật họ không khuyến khích cho cây hồng phát triển chiều cao, tất cả ngọn đều được chặt bỏ để cây tập trung phát triển tán, vươn rộng bằng bề ngang. Người Nhật cho rằng, làm như vậy cây hồng sẽ hấp thụ được nhiều ánh sáng mặt trời, nhiều tán sẽ cho quả nhiều và sản lượng trên từng cây cũng sẽ cao hơn.

    Nhờ thế, khi thu hoạch người Nhật gặp rất nhiều thuận lợi, họ chỉ cần đứng với tầm tay là hái được quả, không phải như người Đà Lạt dùng sào tre đan thêm một cái rọ ở phần chuôi để khều. Cách thu hoạch này khiến tỷ lệ hồng hư hao rất cao vì chúng có thể bị dập do rơi từ trên cao xuống, hoặc bị những rọ tre đâm thẳng vào quả.

    Riêng với công đoạn sấy khô, thực ra nhà vườn Đà Lạt cũng đã thực hiện từ hơn 30 năm trước nhưng họ chỉ làm thủ công, nhỏ lẻ, nếu có áp dụng công nghệ cũ cũng khiến chất lượng hồng sấy không đồng đều, thậm chí nếu khâu điều chỉnh lò than để sấy hồng không đều lửa sẽ khiến sản phẩm có màu hơi đen và không bắt mắt. Trong khi đó, hồng sấy Nhật được lựa chọn nghiêm ngặt và sử dụng công nghệ khép kín nên chất lượng sản phẩm đồng đều. 


    Ông Lộc miệt mài với công việc sấy hồng. Ảnh: Quốc Dũng. 


    Sau khi hiểu rõ công đoạn chế biến và sản xuất, ông Lộc trở về Đà Lạt và mạnh dạn làm thử. Ông dựng trong vườn nhà mình một nhà sấy hồng bằng nilon tương tự như nhà kính trồng hoa ở Đà Lạt, các thiết bị máy móc cũng được trang bị cùng lúc. Ông bắt đầu tuyển lựa những quả to, căng mọng, chín vàng, được hái cả cuống, sau đó đem về rửa sạch, đưa vào máy bóc lớp vỏ ngoài.

    Tiếp đó, những trái hồng này được treo lên sợi dây dù nhỏ, xếp thành từng hàng đưa ra sấy bằng ánh nắng mặt trời qua lớp không khí trong nhà kính và lưới làm mát. Đặc biệt, nhà sấy luôn luôn bật quạt để giữ nhiệt độ nóng vừa phải giúp trái hồng khô theo hơi gió, ngoài ra, những chiếc quạt còn có tác dụng xua đuổi côn trùng. Cách sấy này còn đòi hỏi người làm phải thường xuyên theo dõi nhiệt độ để có điều chỉnh cho phù hợp. Trái hồng được sấy bằng không khí liên tục thế này trong hơn 3 tuần thì thành phẩm, mẻ sấy đầu tiên của ông Lộc đã ra lò và cho kết quả tốt.

    Theo ông, trái hồng sấy theo công nghệ Nhật Bản giữ được lượng đường trong quả cao hơn, độ ngọt đậm đà, hương thơm tự nhiên, đặc biệt mềm và dẻo, đó là những lợi thế hơn hẳn so với cách sấy truyền thống của người Đà Lạt. Hiện ông Trần Phú Lộc đã tiến hành chào hàng ra thị trường, mức giá ông đưa ra từ 300.000- 350.000 một kg bước đầu đã có những khách hàng chấp nhận.

    Để mở rộng đầu tư, ông Lộc đang có kế hoạch liên kết với bà con nông dân để chuyển giao công nghệ trồng, chăm sóc. "Hy vọng trong tương lai trái hồng Đà Lạt sẽ bớt lao đao mỗi khi vào vụ và sản phẩm hồng sấy khô này sẽ sớm được người tiêu dùng trong và ngoài nước đón nhận", ông Lộc kỳ vọng.

    Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

    Kiếm lãi 100 triệu mỗi tháng nhờ trồng phong lan

    Lên mạng tìm hiểu, thấy mô hình trồng hoa phong lan Mokara đem lại hiệu quả kinh tế cao nên anh Nguyễn Xuân Hùng (38 tuổi, xã Hòa Châu, Đà Nẵng) đã quyết tâm đầu tư. Đến nay, mỗi tháng vườn phong lan Mokara cho thu nhập khoảng 100 triệu đồng.

    Anh Hùng cho biết, trước đây, anh làm nghề phổ thông, sau đó có chương trình nông thôn mới về xã, rồi Hội Nông dân phổ biến các mô hình trong đó có trồng hoa phong lan Mokara. Thấy mô hình này lạ, anh lên mạng tìm hiều thì được biết được có một trang trại lớn trồng hoa phong lan Mokara tại huyện Củ Chi (TPHCM) cho thu nhập hàng tỉ đồng.

    Anh khăn gói vào tận TPHCM để xin học hỏi kinh nghiệm và được chủ trang trại cổ vũ, giúp đỡ rất nhiệt tình.

    Về lại Đà Nẵng, năm 2012, anh Hùng dồn hết vốn liếng, vay 45 triệu đồng của Hội Nông dân và vay thêm người thân thêm đầu tư anh dựng nhà lưới, lắp đặt hệ thống tưới bằng vòi phun xoay và mua 500 cây về trồng thử nghiệm tại nhà, với mô hình ban đầu gần 100 triệu đồng.

    Sau 15 tháng kể từ ngày đưa giống về, những bông hoa đầu tiên trong khu vườn đã đơm bông rất đẹp, đủ màu sắc. Cứ đều đều mỗi cây cho hai bông trong một tháng và ngày nào vườn hoa của anh cũng có thu hoạch. Những bông hoa này đều được các shop hoa trong thành phố đặt mua hết.

    Anh Hùng bên vườn hoa nhà mình

    “Hồi mới đưa hoa về trồng tôi cũng lo lắm. Sợ hoa không nở đúng như mong muốn bởi khí hậu Đà Nẵng không giống với khí hậu của TPHCM”, anh Hùng chia sẻ.

    Giống hoa phong lan này có màu tím

    Với thành công bước đầu, anh Hùng tiếp tục đầu tư, nhân rộng vườn hoa lên 2.000 cây, với nguồn vốn 500 triệu đồng. Tại khu trồng 2.000 cây, tháng nào cũng cắt bán 3.500 bông, với giá 12 -15 ngàn đồng/bông, thu về hơn 40 triệu đồng. Không dừng lại ở đó, khi thấy cây phát triển tốt, anh Hùng tiếp tục mạnh dạn đầu tư trồng thêm gần 3.000 cây nữa. Tính ra, mỗi tháng anh thu khoảng 100 triệu đồng.

    Loài phong lan này trổ bông quanh năm. Khi bông đã bung cánh là cắt bán. Bông có thể chưng hơn 1 tháng mới thay.

    Và màu đỏ

    “Vừa làm vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Nhưng đến nay có thể lạc quan nói rằng, hướng đi này phù hợp với xu thế phát triển nền nông nghiệp đô thị. Phong lan Monkara hợp khí hậu thổ nhưỡng Đà Nẵng, bông rất đẹp. Mỗi cây thường trổ 2 - 3 bông/lượt. Cắt đi rồi, khoảng 1 tháng sau đã thấy nhú lên bông khác. Hồi mới đưa về cứ nghĩ, loài phong lan có nguồn gốc từ Thái Lan này trồng để đơm bông không đơn giản. Thế nhưng, trồng rồi mới hay, làm giàu từ loài hoa này không khó. Điều quan trọng nhất là tưới đều và chủ động phòng ngừa các loại nấm gây hại. Từ kinh nghiệm, thời gian qua, tôi duy trì đều đặn việc phun thuốc trừ nấm mỗi tháng 2 lần", anh Hùng chia sẻ.

    Và cả màu vàng

    Anh Hùng cho biết, thấy mô hình trồng hoa của anh thành công nên thành phố đã hỗ trợ đầu tư 300 triệu đồng để phát triển, nhân rộng mô hình. Mô hình này có quy mô 1.1002m với 5.000 cây, tổng số vốn là 2,1 tỷ đồng. Đây là mô hình trồng hoa công nghệ cao, hệ thống tưới tiêu tự động. Theo như kế hoạch, đầu tháng 1/2015, anh sẽ bắt đầu xuống giống.

    Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014

    Lão nông 40 năm nuôi gà tiến vua

    Ông Lê Xuân Vết (Khoái Châu, Hưng Yên) trồng 3 sào chuối làm thức ăn cho gà Đông Tảo. Ông cụ 76 tuổi còn có một trang riêng trên Facebook để tư vấn cách chăm sóc giống gà này.


    Cuối giờ chiều, ông Vết vẫn đang loay hoay trong vườn chuối bạt ngàn.Mái đầu bạc trắng, dáng cao gầy nhom, đôi tay ông thoăn thoắt cắt các đọn chuối non chất lên xe kéo. Tối, một người cháu đi học về ra giúp ông đẩy xe chuối về nhà. "Mỗi ngày tôi băm 50-60 kg chuối trộn với vài bát cám ngô, cám gạo cho gà ăn. Ăn ngô, thóc, gà cũng không thích như khi thêm các chất xơ này vào", ông cụ nói.

    Theo ông, hiện nay giống gà Đông Tảo được nuôi nhiều, phục vụ đa dạng nhu cầu của khách. Các trang trại chủ yếu nuôi cám tăng trọng, giống gà bị lai tạp. Những hộ nuôi gà thả, cho ăn rau, ăn cám như ông chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhiều nhà hàng cũng tìm đến ông đặt nuôi gà thương phẩm song ông cụ nhất quyết trung thành với việc nuôi thả tự nhiên, số lượng ít. Gà của ông thường từ một năm trở lên mới bán thịt được.


    Cứ 2-3 ngày ông cụ lại đi chặt một xe chuối về cho đàn gà tiến vua ăn. Ảnh: Q.T.


    Gà Đông Tảo (hay còn gọi là gà Đông Cảo) là giống gà đặc hữu và quý hiếm, được nuôi nhiều đời nay ở vùng đất Khoái Châu, xưa chỉ có vua mới được thưởng thức. Đặc điểm giống gà này là chân to, 4 ngón, vẩy rồng, mào ngắn, tai tích nhỏ. Theo ông Vết, yếu tố quý không chỉ nằm ở hàm lượng dinh dưỡng, chất lượng thịt thơm ngon, giá cao mà còn ở việc chăn nuôi giống gà này rất khó khăn.

    Có thể là do vóc dáng nặng nề nên tỷ lệ đạp mái, sinh đẻ của loài gà này kém. Một con gà mái thuần chủng thường chỉ đẻ 7-10 quả mỗi lứa (nghỉ 10-15 ngày đẻ tiếp), tỷ lệ nở con chỉ được khoảng 30%.

    "Chăm gà này như chăm đứa trẻ, lúc mưa gió, cần phải che chắn cẩn thận, tiêm thuốc theo định kỳ, dọn chuồng mỗi ngày. Thỉnh thoảng, tôi còn dùng nước lá trầu không cọ rửa chân cho chúng", ông cụ cho hay. Năm ngoái, ông vắng nhà hai ngày, nhờ con gái qua cho gà ăn uống. Một trận mưa nhỏ đã làm chết mất mấy con gà quý, thiệt hại vài chục triệu đồng.


    Gà trống làm giống của nhà ông Vết được trả giá hơn 57 triệu đồng nhưng ông cụ không bán, vì muốn giữ lại gen gà Đông Tảo thuần chủng. Ảnh: Phan Dương.


    Năm 1976, khi đi bộ đội về, ông Vết vừa làm công tác hợp tác xã vừa nuôi thêm giống gà này cải thiện bữa ăn. Thời đó, người dân chuộng giống gà ta, chân nhỏ, còn ông Vết chỉ thích gà Đông Tảo. Khoảng 10 năm gần đây, đời sống cải thiện, giống gà này mới được ưu ái, có người nuôi và người tiêu thụ nhiều.

    Ông Vết vẫn nhớ, cách đây 7 năm, rất nhiều khách tìm tới nhà ông để ngắm đàn gà Đông Tảo thuần chủng. Họ trả giá cao mua một con gà trống còn non tuổi, có mã rất đẹp về làm giống. Cuối cùng, ông đã bán nó cho một khách với giá 40 triệu đồng. "Người ta mua nó để có gen tốt nhân giống gà con. Đến giờ, họ vẫn giữ con gà đó", ông cụ cho hay.

    Tính hay lam hay làm, dù con cái đã yên bề gia thất mà ông cụ vẫn làm việc không ngơi tay. Ngoài gà Đông Tảo, ông còn nuôi lợn mán, chim bồ câu, ngan bướu... Cách đây 3-4 năm ông nuôi hàng nghìn con chim bồ câu Pháp, cho thu nhập cao. Con cái thấy ông vất vả không cho làm nhiều nữa. Nghĩ đi nghĩ lại ông bỏ nuôi chim, từ đó, chỉ còn vui thú tuổi già với gà Đông Tảo và một số giống ngan, lợn đặc sản khác.


    Anh Trung, con trai cụ Vết, cho biết thêm sau nhiều năm làm việc ở nước ngoài trở về, thấy bố dù vất vả mà vẫn say mê với đàn gà nên anh đã quyết định dành thời gian và tiền bạc ủng hộ niềm đam mê của bố.

    "Mới năm ngoái, bố tôi còn kéo hàng tạ chuối về, dùng dao băm rồi lấy đòn gánh đập nhỏ để nuôi lợn, gà. Tôi cũng cầm dao băm giúp cụ nhưng chỉ được vài nhát là hai bàn tay tấy đỏ. Sau lần đó tôi tìm mua cho bố được hai cái máy xay chuối và trộn cám", anh chia sẻ.

    Dù thu nhập không cao như nuôi chim bồ câu nhưng ông cụ rất vui mừng vì hiện tại con giống thuần chủng của mình đã đến được người chăn nuôi. Nhiều khách trong Nam, ngoài Bắc tìm đến ông học hỏi kinh nghiệm, mua con giống. Ông cụ chia sẻ năm ngoái Đài truyền hình Hưng Yên còn dẫn mấy vị khách người Nhật đến mua một cặp gà trống, mái và có ý định mời ông về trang trại của họ hướng dẫn chăm sóc.

    "Tôi đang có hai con gà trống làm giống, một con được trả 46 triệu đồng, một con 52 triệu đồng nhưng không dám bán. Hai con gà đó tôi đã nuôi gần 2 năm và đến giờ vẫn chưa gây được con gà thuần chủng như nó nên dù khách có trả bao nhiêu đi nữa cũng không thể bán được", cụ Vết cho biết.


    Dù tuổi đã cao nhưng ông cụ vẫn hăng say lao động. Ảnh: Phan Dương.


    Hiện tại đàn gà tiến vua của ông Vết đã lên con số hơn 100 con lớn nhỏ, chủ yếu để nhân giống, đều đều tháng nào cũng có lứa xuất chuồng. Thỉnh thoảng, ông cụ có một số gà thịt trưởng thành bán cho người quen biết. Mỗi năm, ông cũng nuôi được khoảng chục con gà trống bán Tết.

    Tuổi cao, nhiều khi làm việc quá sức nhưng ông cụ luôn cảm thấy vui, khỏe. Ngày nào cũng có vài khách đến học hỏi kinh nghiệm. Ông cụ 76 tuổi còn có một trang Facebook để tư vấn những người mê giống gà. Mỗi khi có khách ở xa muốn mua, cụ ông này lại cầm máy iPad quay hình trực tiếp, giúp khách hàng chọn được con gà ưng ý mà không cần đến tận nhà ông.

    Anh Hà, chủ một nhà hàng chuyên chế biến đặc sản gà Đông Tảo trên phố Trung Kính (Hà Nội), cho biết: "Hiện tại, không riêng gì ở Hưng Yên mà rất nhiều nơi đều nuôi giống gà Đông Tảo. Tuy nhiên, mỗi khi có khách quan trọng đặt hàng, tôi vẫn lặn lội từ Hà Nội về mua gà của cụ Vết. Gà của cụ không lai tạo, lại được nuôi theo cách truyền thống nên thực khách rất thích".

    Thứ Năm, 11 tháng 12, 2014

    Kiếm hàng trăm triệu đồng từ vịt trời và chim trĩ đuôi đỏ

    Chim trĩ đuôi đỏ và vịt trời - được dân gian ví như đặc sản tiến vua - đã được chàng bí thư xã đoàn Đặng Văn Tuyến (Tân Yến, Bắc Giang) nuôi thành công. Bên cạnh doanh thu từ nuôi chim, vịt hơn 800 triệu đồng/năm, Tuyến còn tạo thêm việc làm cho nhiều thanh niên địa phương.

    Đặng Văn Tuyến bên đàn vịt trời

    Cuối tháng 9/2014, Bí thư xã đoàn Đặng Văn Tuyến đã vinh dự được nhận Giải thưởng Lương Định Của từ T.Ư Đoàn TNCS HCM.

    Chọn lối đi riêng


    Trao đổi với PV Dân trí, Đặng Văn Tuyến nhớ lại: “Đầu năm 2010, tôi vẫn còn gắn bó với mô hình chăn nuôi truyền thống lợn, gà và cá tại quê nhà Ngọc Văn, Tân Yên (Tỉnh Bắc Giang). Mô hình hoạt động được 2 năm nhưng hiệu quả không cao do sự lên xuống bất thường của giá thịt lợn, nguyên liệu”.

    Cả năm, hai vợ chồng Tuyến làm quần quật mà chỉ có lãi được 40-50 triệu đồng, có năm còn hòa vốn. Đang lúc muốn tìm một nghề mới để thay đổi thì Tuyến được người bạn của bố từ Hà Nội lên thăm gia đình gợi ý: “Cháu thử nuôi con chim trĩ đuôi đỏ xem sao. Bác thấy dưới Hà Nội, giá của chim trĩ đỏ lên tới 400-500.000 đồng/kg đấy!”.


    Đặng Văn Tuyến nhận giải thưởng Lương Định Của từ T.Ư Đoàn TNCS HCM

    Nghe thấy hấp dẫn, Tuyến Lao vào tìm tòi. Thông qua mạng ineternet, chàng trai 21 tuổi đã có thêm nhiều thông tin về loài chim cùng họ nhà gà này, đặc tính sinh trưởng, thức ăn và những nơi đang nuôi tại miền Bắc. Tuyến tự mình đi xe khách xuống thăm một trang trại nuôi chim trĩ đuôi đỏ tại Hà Nam.

    Anh nhớ lại:“Tôi mua 20 con giống với giá 1,2 triệu đồng/con. Đem về nuôi thử sau hơn 4 tháng thì chim đã lên tới gần 1 kg. Điều kỳ thú nhất là một sáng, tôi ra thăm chuồng chim thì phát hiện ra những quả trứng do chim trĩ đẻ”.

    Từ mô hình 20 con giống, vợ chồng Tuyến tự học cách dựng chuồng trại và gây giống, tìm tòi thức ăn sao cho hợp với giống và gần địa phương. Đồng thời, Tuyến tham khảo kinh nghiệm của những trại nuôi chim ở các tỉnh cũng như qua internet.

    Tới nay, trang trại của Tuyến đã có tới hàng trăm chú chim trĩ đuôi đỏ. Tuyến hào hứng: “Chim trĩ đuôi đỏ có bộ lông tuyệt đẹp. Chim thương phẩm nặng từ 1-11, kg/con. So với giá cách đây 3 năm là 450.000 đồng/kg, giá hiện nay chỉ còn 250.000 đồng/kg những cũng đã giúp tôi có lãi”. Được biết, chim trĩ đuôi đỏ thương phẩm có nguồn tiêu thu ổn định tại Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng nhờ thịt ngon, hương vị đậm đà và độ dinh dưỡng cao.

    Để có được những kết quả này, không biết bao nhiêu lần, Tuyến đã phải nhận về những thất bại, những khi bức bí về nguồn vốn phục vụ đầu tư, hay nhiều đêm mưa gió thức trắng theo dõi vật nuôi. "Có đợt đầu, gần như toàn bộ mẻ trứng chim trĩ đều hỏng hết. Khi đó, tôi chưa biết điều chỉnh nhiệt độ khoang ấp..." - anh kể.

    Biến vịt trời thành…vịt nhà

    Trên cơ sở thành công về nuôi chim trĩ đuôi đỏ, Tuyến tiếp tục nghiên cứu cách nuôi vịt trời. “Tôi nghe nhiều chủ nhà hàng nói nhu cầu của khách muốn ăn món vịt trời. Mặt khác, dòng chim và vịt cùng thường đi với nhau trong các danh mục nhà hàng. Nếu làm được cả 2 loại này sẽ có nguồn cung ổn định”.

    Lại tiếp tục mày mò, học hỏi thông tin về con vịt trời qua bạn bè và internet, Tuyến nhận thấy việc nuôi không khó. Điều quan trọng là biết tận dụng mặt nước nuôi cá cũng như diện tích chuồng trại có sẵn. Thức ăn của loài vịt trời cũng giống như gà, vịt nhà.

    Đặng Văn Tuyến (ngoài cùng, bên trái) đang chia dẻ kinh nghiệm nuôi chim trĩ với bạn trẻ địa phương

    Chỉ sau 2 năm, hiện trang trại của Tuyến đã có hàng trăm con vịt trời làm giống và thương phẩm cho khách. “Điều quan trọng là khi nuôi hai giống này, bạn phải nhớ có lưới mắc ở trên cao kẻo chúng bay về trời mất” - Tuyến hài hước.

    Tuyến cho biết, doanh thu hiện nay từ việc nuôi chim trĩ đuôi đỏ và vịt trời đạt khoảng 800 triệu đồng/năm, tạo việc làm cho 10 lao động trong đó 3 lao động thường xuyên (3 triệu đồng/tháng).

    Trang trại của Tuyến có tổng đàn chim trĩ đuôi đỏ bố mẹ là 150 con, chim thương phẩm 500 con/lứa. Mỗi năm, anh xuất bán ra thị trường 8.500 con giống, 2.000 con chim thịt. Chưa kể hàng trăm con vịt trời cung cấp thịt thương phẩm, trứng và con giống cho bạn hàng và thị trường.

    Ngay khi được nhận Giải thưởng Lương Định Của năm 2014 từ T.Ư Đoàn TNCS HCM, Tuyến cảm thấy như có trách nhiệm hơn với công việc và cộng đồng.

    Với tư cách là Bí thư chi đoàn xã Ngọc Văn, Tuyến đã nhân rộng mô hình nuôi chim trĩ đỏ thương phẩm tới các đoàn viên trong chi đoàn và hội viên hội nông dân xã bằng việc cung cấp giải pháp kỹ thuật, cung cấp 1.000 con giống tới các hộ dân với trị giá đầu tư 45 triệu đồng. Đồng thời, Tuyến bao tiêu luôn nguồn chim trĩ thương phẩm giúp các hộ dân.

    Bên chuồng chim trĩ tại gia đình

    Khi được hỏi về bài học từ thành công này, Tuyến chân thành: “Điều quan trọng là phải biết mình đang cần gì và cách thức để thực hiện điều đó. Câu chuyện về nuôi chim và vịt trời có đầy những vấp ngã và gượng dậy để tới thành công của tôi. Ban đầu nhiều người chưa tin, mình phải gương mẫu làm thử. Khi thành công rồi thì mới thu hút được nhiều người”.

    Phan Minh

    “Bạn trẻ hiện có nhiều sự lựa chọn lập nghiệp: Lên thành phố làm thuê hoặc tìm 1 nghề đi học. Tuy nhiên, việc học cũng tùy người có thể tiếp thu, việc làm thuê thì chỉ có sức khỏe nhưng thiếu bằng cấp thì cũng không bền. Bạn trẻ có thể tìm tới cách bền vững từ việc phát triển kinh tế nông qua việc lựa chọn nuôi con gì, trồng cây gì cho phù hợp, trên cơ sở áp dụng khoa học kỹ thuật và cách làm độc đáo tạo dấu ấn riêng” - Tuyến tâm sự

    Thứ Hai, 8 tháng 12, 2014

    Đổi đời từ nuôi chó Phú Quốc

    Anh Tưởng Văn Quý (28 tuổi), chủ cơ sở nuôi và bảo tồn giống chó quý hiếm Hoàng Hà, ở P.Thạnh Xuân, Q.12, TP.HCM mỗi năm thu lợi nhuận hàng trăm triệu đồng từ nuôi chó.


    Anh Tưởng Văn Quý - Ảnh: Lê Thanh


    Cách ngã tư Ga (Q.12) khoảng 2 km, đi qua những con đường ngoằn ngoèo nhưng khi hỏi thăm thông tin về trại nuôi chó Phú Quốc của anh Tưởng Văn Quý thì rất nhiều người biết. Không những nổi tiếng ở địa phương mà tiếng lành đồn xa đến nhiều tỉnh thành trong cả nước với nghề nuôi chó Phú Quốc của chàng trai trẻ có biệt danh “Quý khuyển”.

    Theo anh Quý, chó con sinh ra khoảng 2 tháng tuổi bán với giá trung bình từ 4 - 5 triệu đồng/con. Nhưng cũng có con chó “tuyển” bán với giá rất cao. “Quan trọng là người mua vì nếu họ đã thích con chó nào rồi thì giá có cao hơn họ cũng sẵn sàng bỏ tiền ra. Mình đã từng bán một con chó Phú Quốc với giá 80 triệu đồng”, Quý tiết lộ.

    Chia sẻ kinh nghiệm nuôi giống chó này, anh Quý nói: “Thật ra chó Phú Quốc rất dễ nuôi. Khi đẻ chó mẹ tự tìm chỗ, tự lo cho con mà không cần tới con người hỗ trợ. Mỗi năm chó đẻ hai lứa, từ 7 - 8 con/lứa; có con đẻ từ 11 - 12 con/lứa”.

    Tuy nhiên, để chó khỏe mạnh, anh Quý lưu ý: “Phải quan tâm đến chế độ dinh dưỡng của chúng. Thực phẩm phải được rửa sạch sẽ và chế biến kỹ trước khi cho chúng ăn nhằm tránh gây bệnh đường ruột. Ngoài chế độ ăn uống thì cần chú trọng đến việc vệ sinh chuồng trại sạch sẽ để hạn chế đến mức thấp nhất các mầm bệnh gây hại đàn chó. Khi chó mới đẻ phải tiêm phòng cho chúng, hạn chế bệnh tật trong quá trình nuôi, đảm bảo chó lớn lên khỏe mạnh”.

    Hiện tại trang trại chó của anh Quý có hơn 50 con chó giống. “Mình đang xây dựng thêm chuồng trại để phát triển đàn chó từ 50 con như hiện nay tăng lên 150 con. Bây giờ mình không phải lo đầu ra nữa mà chỉ lo phát triển bầy đàn và chất lượng con giống cho tốt bởi vì hiện nay khách hàng của mình hầu như đã trải rộng từ nam ra bắc”.

    Nói về lợi nhuận từ trang trại này, Quý bảo: “Năm 2013, sau khi trừ hết chi phí mình kiếm được gần 300 triệu đồng. Năm nay mặc dù chưa thống kê nhưng mình nghĩ cũng kiếm được gần 500 triệu đồng. Nếu thuận buồm xuôi gió, chỉ 2 năm nữa thôi khi tăng số lượng bầy đàn thì lợi nhuận mỗi năm sẽ tăng nhiều lần so với hiện tại”.

    Từ thời ở nhà trọ, nhờ nuôi chó mà vợ chồng anh Quý đã mua được hai căn nhà liền kề ở Q.12 và mới mua thêm được một miếng đất rộng 300 m2 sát nhà.

    Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2014

    Nuôi thỏ lãi 30 triệu đồng/tháng

    Thỏ thịt 2,5 tháng là xuất chuồng, thường có trọng lượng 2,2-3kg/con, giá bán ra 90-100 nghìn đồng/kg.


    Mấy năm gần đây, tại thôn 5, xã Hòa Ninh, huyện Hòa Vang (Đà Nẵng), hoạt động nuôi thỏ giống nhập ngoại rất phát triển, các trang trại nuôi quy mô lớn thi nhau ra đời. Một trong số đó là trại thỏ Quốc Cường của chàng trai trẻ Dương Văn Chính (ngụ tại phường Hòa Khánh Nam, Liên Chiểu, Đà Nẵng).

    Trao đổi với chúng tôi, anh Chính cho biết: Thỏ là loài vật mắn đẻ nên phát triển rất nhanh. Hồi trại đi vào hoạt động chỉ gần 100 con thỏ bố mẹ, nay dù liên tục xuất chuồng mà tổng đàn vẫn hơn 1.000 con. Thỏ mẹ, mỗi năm đẻ 7-8 lứa, mỗi lứa 6-8 con. Chỉ 4 tháng từ khi lọt lòng là thỏ đã làm mẹ. Tổng đàn như hiện nay, ngày nào cũng có cả chục thỏ mẹ “ở cữ”.




    Anh Dương Văn Chính tại trại thỏ của mình

    Với thỏ thịt 2,5 tháng là xuất chuồng, thường có trọng lượng 2,2-3kg/con, giá bán ra 90-100 nghìn đồng/kg. Thỏ giống chỉ hơn 1 tháng là chuyển giao cho khách hàng với giá 150 nghìn đồng/kg. Từ ngày duy trì tổng đàn trên dưới 1.000 con đến nay, tháng nào anh cũng xuất chuồng 600-700kg, doanh thu khoảng 80 triệu đồng/tháng, sau khi trừ chi phí lãi 30-40 triệu đồng/tháng”. Hàng năm, trại thỏ mang lại cho anh doanh thu hơn 1 tỷ đồng.

    Nói về kinh nghiệm nuôi thỏ, anh Chính “bật mí”: Thỏ là loài vật dễ nuôi. Thức ăn cho chúng cũng khá phổ biến, chủ yếu là rau các loại, có khi cả cây cỏ. Yếu tố quan trọng nhất là phòng ngừa được bệnh tật. Muốn vậy chuồng phải cao ráo, sạch sẽ, ấm về mùa đông, thoáng về mùa hè. Thỏ bố mẹ và hậu bị định kỳ 6 tháng tiêm phòng/lần và cứ 10 ngày phun tiêu độc khử trùng chuồng trại 1 đợt. “Từ kinh nghiệm này, sau khi nuôi khá thành công, tôi có viết quyển sách về kỹ thuật nuôi thỏ giống nhập ngoại để giao cho khách hàng khi họ mua thỏ giống” - anh Chính cho biết.

    Hỏi về dự định trong tương lai, chàng thanh niên tự tin: “Sắp tới sẽ đầu tư mở rộng, nâng tổng đàn lên khoảng 2.000 con. Trong tương lai gần sẽ xây dựng thương hiệu sản phẩm và kết nối với các siêu thị, nhà hàng dưới phố tiêu thụ thịt thỏ sạch”.

    Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

    Tỷ phú đà điểu xóm núi

    Là người đi tiên phong đưa giống đà điểu vào chăn nuôi ở miền Bắc, anh Nguyễn Văn Trung (39 tuổi), thôn Tam Mỹ, xã Tản Lĩnh, Ba Vì (Hà Nội) gặp không ít khó khăn, nhưng với tính kiên trì nhẫn nại, anh đã từng bước vượt qua để trở thành tỷ phú.

    Chi phí thấp, lãi cao

    Đến thăm nhà anh Trung tại xóm nghèo Tam Mỹ, tôi thực sự bị choáng ngợp bởi cơ ngơi của gia đình anh. Biệt thự đồ sộ. Nội thất sang trọng. Vườn tược rộng rãi... Nhưng, chủ của ngôi nhà ấy lại là một lão nông chân chất và hiếu khách. Anh Trung bảo: "Tất cả những gì có đều từ trang trại đà điểu của gia đình mà ra đấy".

    Vừa dẫn tôi ra thăm chuồng đà điểu, chủ nhà vừa dặn: "Đi khẽ thôi chú nhé. Đà điểu tuy là con vật hoang dã mới được thuần chủng nhưng rất nhát, nếu nghe thấy tiếng động mạnh là giật mình chạy tán loạn hết". Kỳ lạ thay, vừa nhìn thấy chủ, hàng trăm con đà điểu (mỗi con nặng khoảng 1 tạ) xúm đến đông đỏ. Chúng vừa nhảy múa vừa xòe cánh tung tẩy như những vũ công reo vui đón chào.

    Anh Trung cho biết, trong tất cả các con vật, nuôi đà điểu là nhàn nhất. Thức ăn của nó chủ yếu là rau cỏ, ngô, khoai, sắn, thóc... chứ không cần mua cám công nghiệp đắt tiền. Trên thực tế, một lao động có thể chăm sóc 200 con đà điểu nên tiết giảm tối đa nhân lực mà hiệu quả kinh tế lại khiến nhiều người phải giật mình. Chi phí xây dựng chuồng trại vô cùng thấp.

    Chuồng chỉ cần có mái che mưa là được, vì khi đạt từ 30 kg trở lên, đà điểu chủ yếu sống ngoài trời. Nền sân không cần lát gạch mà là nền đất, nếu có điều kiện thì đổ thêm cát cho đà điểu khỏi trơn trượt khi chạy nhảy. Xung quanh chỉ cần che chắn bằng lưới sắt và cọc bê tông. Với diện tích 1.000 m2, mỗi năm gia đình anh Trung nuôi 100 đà điểu. Sau 8 - 10 tháng chăm sóc, trọng lượng mỗi con nặng trung bình 1 tạ. Với giá cả thị trường như hiện nay, mỗi lứa nuôi anh thu về trên 2 tỷ đồng, trừ tất cả các chi phí cũng lãi vài trăm triệu.

    Vươn lên từ nghèo khó

    Qua cuộc trò chuyện với anh Trung, tôi thực sự khâm phục trước nghị lực và quyết tâm làm giàu của anh. Sinh ra và lớn lên trên vùng núi Ba Vì nghèo khó, đủ tuổi lao động, Trung vác ba lô thoát ly gia đình đi làm thợ xây rất cực khổ. Đến đầu những năm 2000, mỗi một ngày công, chủ thầu xây dựng chỉ trả cho anh khoảng 20.000 đồng nên không đủ tiền nuôi vợ con. Có hôm 2 bìa đậu cả nhà ăn trong 1 ngày.

    Không thể chấp nhận cảnh bán sức lao động cho người khác để chạy ăn từng bữa, từ năm 2003 anh Trung quyết định bỏ nghề thợ xây, vay vốn ngân hàng, người thân mua 4 bò sữa để nuôi. Tuy chăn nuôi bò sữa cho thu nhập khá nhưng phải bỏ nhiều tiền thuê nhân công, quỹ đất của gia đình lại eo hẹp nên không đủ diện tích trồng cỏ.

    Nhận thấy không có khả năng phát triển chăn nuôi bò sữa ở quy mô lớn, năm 2006, anh Trung bán bò lấy tiền đầu tư chuồng trại và nuôi 100 lợn nái cộc đuôi. Thu nhập từ nuôi lợn vừa lãi vừa nhàn hơn nuôi bò, nhưng chất thải chăn nuôi lại gây ô nhiễm môi trường nặng nề. Không có đủ tiền đầu tư hệ thống bể chứa và xử lý nước thải nên mùi phân bốc lên nồng nặc khiến hàng xóm kêu ca.

    "Tình làng nghĩa xóm bao giờ cũng cao hơn miếng cơm, manh áo. Vì thế, tôi quyết định mày mò tìm kiếm những giống vật nuôi khác phù hợp với quy mô trang trại nhỏ của gia đình, ít gây ô nhiễm mà vẫn đem lại giá trị kinh tế cao để thay thế dần đàn lợn", anh Trung tâm sự.



    Anh Nguyễn Văn Trung chăm sóc đàn đà điểu

    Thông qua nghiên cứu sách vở, đặc biệt là học hỏi kinh nghiệm chăn nuôi từ các chuyên gia của Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương (Hà Nội), nhận thấy nuôi đà điểu cho hiệu quả kinh tế cực cao nên từ năm 2007, anh Trung đã nhập 50 con giống (mỗi con 2,7 triệu đồng) về nuôi kèm với lợn siêu nạc.

    Năm đầu tiên, dù đà điểu phát triển rất tốt, nhưng đầu ra sản phẩm lại gặp khó khăn chồng chất. "Thời điểm ấy kinh tế đất nước còn nghèo. Trong khi đó thịt đà điểu lại là một thứ đặc sản xa xỉ. Khi đạt trọng lượng từ 1 - 1,1 tạ, có ăn bao nhiêu thì đà điểu cũng không thể tăng cân. Người mua không có, mỗi ngày gia đình phải mất gần 100 kg thức ăn để chờ bán. Thương lái lợi dụng cơ hội gây áp lực khiến giá thành giảm mạnh", ông chủ trang trại cho biết.

    Hai năm đầu tiên, dù lỗ nặng nhưng anh Trung vẫn không từ bỏ bởi anh quan niệm: "Muốn thành công thì cần phải kiên trì, không thể cứ mãi chăn nuôi theo kiểu "ăn xổi" được. Khi mình đã có kỹ thuật chăn nuôi rồi thì những khó khăn khác có thể từ từ gỡ bỏ.

    Ít dịch bệnh

    Nhiều đêm trăn trở suy nghĩ, anh Trung đã nảy sinh sáng kiến tự chủ động bao tiêu sản phẩm cho chính gia đình mình bằng cách mở cửa hàng thịt đà điểu ở tỉnh lộ 87A, đoạn qua xã Tản Lĩnh bán cho các nhà hàng quanh khu du lịch Ba Vì. Vài tháng đầu cửa hàng thưa thớt khách, nhưng càng về sau càng đông. Do thịt đà điểu của gia đình đảm bảo chất lượng tốt, tươi ngon nên rất nhiều người kéo về mua.

    Tình thế trở nên "đảo lộn", trại đà điểu của anh Trung không đủ hàng phục vụ kịp nhu cầu của xã hội nữa. Thời điểm năm 2011, ở miền Bắc chỉ có lác đác vài hộ gia đình nuôi đà điểu với số lượng từ 10 con trở xuống nên nguồn hàng rất khan hiếm. Để giữ uy tín làm ăn, anh phải lặn lội vào tận miền Nam "săn" đà điểu để giao đủ số lượng theo đơn đặt hàng khách yêu cầu.

    Không thể thụ động chờ nguồn hàng đến với mình, anh Trung quyết định chuyển giao giống và kỹ thuật chăn nuôi đà điểu cho bà con trong vùng để xây dựng nguồn sản phẩm tại chỗ. Anh chia sẻ: "Nuôi đà điểu non rất khó, tỷ lệ rủi ro cực cao, đặc biệt là khả năng chịu lạnh kém nên vào mùa đông, hiện tượng đà điểu non bị chết thường xuyên xảy ra.

    "Để hướng tới làm ăn chuyên nghiệp, sắp tới, dự định của tôi là đầu tư máy hút chân không trong khâu đóng gói để có thể giữ được thịt tươi trong thời gian lâu mà vẫn đảm bảo an toàn thực phẩm. Mặt khác, tôi cũng đang cố gắng liên hệ với nhiều sở, ban ngành để ký thương hiệu cho sản phẩm thịt đà điểu Ba Vì", anh Trung chia sẻ.

    Do đã có nhiều kinh nghiệm chăn nuôi nên tôi thường nhập con giống 1 ngày tuổi đem về chăm sóc 2 - 3 tháng đầu. Khi đà điểu đạt khoảng 10 - 15 kg, hoàn toàn khỏe mạnh và chống chịu được với mọi điều kiện thời tiết thì sẽ cung cấp cho các trang trại quanh vùng và nhiều tỉnh lân cận như Hải Phòng, Hưng Yên, Việt Trì, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh... với giá 2,5 triệu đ/con. Sau khi đà điểu đến thời điểm xuất bán, tôi sẽ nhập hàng trở lại để đảm bảo đầu ra thuận lợi cho người chăn nuôi".

    Theo anh Trung, bản năng giống đà điểu là 70% gia cầm và 30% gia súc. Khi đã đạt trọng lượng từ 15 kg trở lên, khả năng chịu đựng với những biến đổi ngoại cảnh của chúng cực khỏe. Trên thế giới nói chung cũng như ở VN nói riêng, chưa bao giờ có dịch bệnh đại trà đối với đàn đà điểu. Vì thế, với những người chưa có kinh nghiệm chăn nuôi, việc nuôi đại trà các giống gà, lợn rất dễ xảy ra dịch bệnh hàng loạt, dẫn đến khuynh gia bại sản. Nhưng, với con đà điểu thì cầm chắc phần thắng.

    Nhờ sự giúp đỡ tận tình của anh Trung, một số hộ dân trong vùng đã đẩy mạnh chăn nuôi đà điểu và vươn lên làm giàu. Điển hình như anh Phùng Quốc Việt (cùng thôn) đang nuôi 80 con, mỗi năm thu lãi hàng trăm triệu đồng; anh Chu Quang Khải (cùng thôn) đang nuôi 20 con.

    Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

    Nữ trưởng thôn làm kinh tế giỏi

    Qua giới thiệu của xã Na Hối (Bắc Hà –Lào Cai), chúng tôi đến thăm gia đình bà Vàng Thị Ưởng, 48 tuổi, dân tộc Tày, ở thôn Na Áng A, được bà con trong thôn, xã ca ngợi là một nữ trưởng thôn năng động, dám nghĩ, dám làm, vừa hoàn thành tốt công tác, vừa sản xuất và kinh doanh giỏi, chúng tôi thực sự cảm phục trước cơ ngơi đồ sộ của gia đình, với ngôi nhà biệt thự khang trang trị giá gần tỉ đồng, xung quanh nhà cây trái trĩu trịt.

    Có được thành quả như ngày hôm nay bà Vàng Thị Ưởng chia sẻ một số bí quyết phát triển kinh tế của gia đình.


    Bà Vàng Thị Ưởng

    "Gia đình tôi được tham gia tập huấn kỹ thuật sản xuất nông- lâm nghiệp do Trạm khuyến nông huyện tổ chức. Về nhà tôi áp dụng đưa giống ngô, lúa mới vào sản xuất, tập trung cải tạo, phát triển vườn mận tam hoa, đào pháp. Phát triển chăn nuôi gà, lợn, thỏ và nhím và kinh doanh dịch vụ thổ cẩm. Thuận vợ, thuận chồng, làm ăn, kinh doanh và sản xuất ngày một phát triển nên kinh tế gia đình khấm khá dần lên": bà Ưởng cho biết.

    Mấy năm trở lại đây, gia đình bà Ưởng tích cực cải tạo vườn mận tạp và trồng mới cây mận, hiện gia đình bà có hơn 120 cây mận và đào đang cho thu nhập, đem lại nguồn thu nhập đáng kể. Năm 2010 đến nay, mỗi năm vườn mận, đào cho thu hoạch từ 50- 60 triệu đồng. Bên cạnh chăn nuôi lợn, gà, ngan, gia đình bà Ưởng còn mạnh dạn tham gia dự án nuôi thí điểm nhím, từ một đôi nhím giống ban đầu, đến nay, đã phát triển thành đàn với 6 con, hứa hẹn nguồn thu không nhỏ cho gia đình và bắt đầu nuôi thí điểm một số đôi thỏ giống.

    Vào các phiên chợ Bắc Hà như: Chợ phiên thứ 3 ở Cốc Ly, thứ 7 Nậm Lúc, Cán Cấu, chợ Bản liền, Bảo Nhai, chợ phiên Bắc Hà vào chủ nhật, vợ chồng bà Ưởng chịu khó đi đủ phiên buôn bán, kinh doanh hàng thổ cẩm, tạo thêm thu nhập cho gia đình.

    Năm 2008, bà Ưởng được bà con nhân dân trong thôn tin yêu bầu làm trưởng thôn, ý thức trách nhiệm bản thân, bà Ưởng luôn gương mẫu đi đầu và vận động bà con trong thôn chấp hành tốt đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng, nhà nước, thi đua xây dựng nông thôn mới, thi đua phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đưa các giống mới vào sản xuất, cải tạo lại vườn mận tạp, Bà Vàng Thị Ưởng cho biết: "Hiện xã có chủ trương bê tông hóa đường giao thông nông thôn, tôi vận động nhân dân tích cực quyên góp tiền của, hiến đất, đăng ký tham gia công lao động chuẩn bị làm đường vào sau tết nguyên đán Quý tỵ 2013 này. Phối hợp với cấp ủy chi bộ thôn vận động nhân dân trong thôn tập trung trồng ngô cao sản, lúa lai, đặc biệt phát triển hiệu quả cây mận tam hoa, đời sống bà con nhân dân ngày một khá lên, không còn hộ đói, nhiều hộ giàu lên mua được ô tô, xe máy, xây nhà khang trang. Bà con nhân dân tích cực vệ sinh làng bản sạch sẽ, thực hiện nếp sống mới văn minh, hiện đại, bài trừ các hủ tục lạc hậu trong cưới xin, ma chay...".

    Với thành tích đã đạt được trong phát triển kinh tế gia đình và thực hiện chức trách, nhiệm vụ của người trưởng thôn, bà Vàng Thị Ưởng vinh dự được Chủ tịch ủy ban nhân dân Tỉnh tặng bằng khen có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua "nông dân sản xuất kinh doanh giỏi và xóa đói giảm nghèo" lần thứ VII, giai đoạn 2006-2010 và được các cấp, các ngành trao tặng nhiều bằng khen, giấy khen .

    Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

    Trồng rau sạch công nghệ cao

    Anh Mai Văn Khẩn ở phường 12, TP Đà Lạt (Lâm Đồng) mạnh dạn đầu tư nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới tự động để SX nông nghiệp công nghệ cao, đã trở thành tỷ phú.

    Anh Khẩn cho biết, quê anh ở huyện Nga Sơn (Thanh Hóa), năm 1994 anh lấy vợ người Đà Lạt và sinh sống bằng nghề trồng rau. Lúc đầu SX theo phương thức truyền thống, trồng bắp cải, xà lách, cà rốt... sau đó anh mướn thêm 1 ha đất vừa trồng rau, vừa nuôi heo. Cứ thế lợi nhuận từ rau anh lại mua heo nuôi, bán heo anh lại gom tiền mua đất, dần dà anh đã mua được 4 ha chuyên trồng rau các loại.

    Bước ngoặt đến vào năm 2007 anh chuyển toàn bộ diện tích trồng rau truyền thống sang ứng dụng NNCNC. Mạnh dạn đầu tư nhà lưới, nhà kính, hệ thống tưới nước, bón phân tự động. Đặc biệt là nhập khẩu các loại giống rau, củ quả năng suất cao như củ cải đỏ, su hào tím, cà rốt baby, ớt ngọt, cà chua bi, dưa leo baby, bắp sú bao tử, củ hồi...


    Anh Khẩn bên mô hình SX rau sạch CNC

    Nhờ chịu khó cần cù, luôn luôn tìm tòi chuyển đổi giống cây trồng, áp dụng KHKT vào trồng trọt, trang trại rau sạch của anh phát triển tốt, thị trường tiêu thụ mạnh. Tiếng lành đồn xa, nhiều người dân trong vùng tới hợp tác, học hỏi kinh nghiệm và cách làm đều được anh giúp đỡ tận tình.

    Năm 2010, anh đứng ra thành lập tổ hợp tác rau sạch, hướng dẫn kỹ thuật cũng như bao tiêu sản phẩm cho 13 thành viên với 16 ha chuyên trồng rau sạch. Sản lượng đạt từ 350 - 400 tấn/năm. Đến năm 2012, rau của anh và nhiều thành viên đạt được chứng nhận VietGAP và bán rất tốt ở các siêu thị.

    Anh Khẩn kể: "Sau khi thương hiệu rau của tổ hợp tác được công nhận VietGAP, tôi đã nhận được nhiều hợp đồng và đơn đặt hàng, thị trường tiêu thụ ngày càng mạnh, nhiều khi không cung cấp đủ sản lượng rau sạch. Để đáp ứng cho nhu cầu của thị trường TP.HCM, chúng tôi đã phát triển từ tổ hợp tác lên HTX mang tên HTX Nông nghiệp tổng hợp Tân Tiến với diện tích 60 ha, gồm 15 xã viên, chuyên SX rau củ quả".

    Hiện số người tham gia HTX ngày càng tăng, diện tích và sản lượng rau cũng tăng lên đáng kể, thị trường tiêu thụ mở rộng, đòi hỏi mọi xã viên phải đồng lòng. Đặc biệt là quy trình kỹ thuật GAP phải tuân thủ nghiêm ngặt, từ khâu làm giống đến chăm sóc, sử dụng thuốc BVTV, phân bón...

    Hàng tháng HTX phải sinh hoạt, kiểm tra định kỳ sử dụng thuốc BVTV, chất lượng sản phẩm, đảm bảo sức khỏe cho người SX cũng như quyền lợi người tiêu dùng. "Người SX phải trồng được rau sạch, người tiêu dùng được ăn rau sạch", đó cũng chính là tiêu chí của HTX.

    Anh Khẩn chia sẻ thêm, hiện HTX không ngừng nghiên cứu, áp dụng KHKT, nhập các loại rau củ quả giống mới, đa dạng về chủng loại, hiệu quả kinh tế cao, chất lượng tốt như củ hồi (củ gần giống củ hành tây) ăn rất ngon, bán với giá sỉ từ 60.000 - 80.000 đ/kg; bắp sú bao tử (giống cây súp lơ), không ăn lá, không ăn bắp, mà ăn trái mọc ở nách lá vừa ngon vừa lạ mắt, giá bán sỉ 150.000 đ/kg.

    HTX SX rau chủ yếu theo đơn đặt hàng và thị hiếu của người tiêu dùng. Chính vì vậy thị trường tiêu thụ rất mạnh, sản lượng rau sạch chủ yếu cung cấp cho hệ thống siêu thị Metro, hệ thống khách sạn và các chợ đầu mối ở TP.HCM như chợ Thủ Đức, Bình Điền... với ước tính đạt từ 650 - 700 tấn /năm, bán với giá bình quân từ 15.000 - 20.000 đ/kg.

    Từ hai bàn tay trắng, anh Mai Văn Khẩn đã có trong tay 4 ha đất nông nghiệp chuyên trồng các loại rau sạch, một năm thu nhập khoảng 3 - 4 tỷ đồng. Anh không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn muốn nhiều người có cơ hội làm giàu từ NNCNC tại HTX rau sạch Tân Tiến. Tới đây, anh tiếp tục nghiên cứu, tập huấn, hướng dẫn cho xã viên chuyển dần sang SX rau sạch theo quy trình GlobalGAP (tiêu chuẩn quốc tế) nhằm hướng tới XK rau ra nước ngoài.

    Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

    Trồng cam sành, thành tỷ phú

    Cam sành Hàm Yên đã sẵn có thương hiệu, nhưng để làm nghề đạt hiệu quả không phải chuyện đơn giản. Hãy thử tìm hiểu kinh nghiệm từ vị "đại gia chân đất" ở Tuyên Quang.

    Trong chuyến công tác tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, phóng viên được ông Trần Anh Tuấn - Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Hàm Yên giới thiệu một "đại gia chân đất" đã sử dụng rất hiệu quả tiền vay của ngân hàng để làm giàu với nghề trồng cam sành.

    Quyết chí làm giàu

    "Đại gia chân đất" ấy là anh Nguyễn Văn Phò (quê Hàm Yên, Tuyên Quang) - người đã góp sức thay đổi diện mạo cho Khuổi Mù, thôn vùng cao thuộc xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Cam sành Hàm Yên đã sẵn có thương hiệu, nhưng để làm nghề đạt hiệu quả không phải chuyện đơn giản.


    Anh Phò (phải) giới thiệu sản phẩm cam sành của gia đình với cán bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Hàm Yên.

    Chẳng nói đâu xa, từ năm 2007 trở về trước, cây cam sành ở Khuổi Mù đã là nguồn sống của gần 40 hộ gia đình người Dao trên núi Ngòi Lịp, nhưng do thiếu vốn lẫn ứng dụng khoa học kỹ thuật còn hạn chế nên công việc sản xuất còn mang tính nhỏ lẻ. Vì cuộc sống khó khăn, người Dao chỉ trồng cam với mục đích đổi gạo kiếm ăn từng bữa nên nhiều khi họ bị cánh thương lái ép giá, có lúc một cân cam chỉ bán... 1.000 đồng.

    Có được cơ ngơi như ngày hôm nay, anh Phò khẳng định, ngoài sự quyết tâm của bản thân anh và người thân trong gia đình, không thể không nhắc tới sự ủng hộ, động viên và giúp đỡ cho vay vốn rất đúng thời điểm của các cán bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

    Quê gốc ở huyện Hàm Yên (giáp với huyện Bắc Quang), khi lên Khuổi Mù năm 2007, anh Phò khi ấy cũng chỉ là một người nông dân với số vốn trong tay rất hạn chế. Không có nhiều tiền, nhưng đổi lại, anh Phò có sự quyết tâm và tinh thần chịu thương, chịu khó. Vẫn quyết định trồng giống cam của quê hương Hàm Yên, nhiều đêm anh thao thức suy nghĩ cách làm ăn đạt hiệu quả, mang lại công việc ổn định cho gia đình cũng như nhiều lao động khác.

    Ban đầu, nhìn cảnh đồi núi trơ trọi, điện không có, nước thiếu thốn, lại thêm đường sá đi lại rất khó khăn, chị Nguyễn Thị Hằng (vợ anh Phò) đã... bàn lùi khi tính chuyện quay về thị trấn Tân Yên để tìm việc khác. Nhưng, khi chí đã quyết, anh Phò quyết tâm phải làm bằng được.

    Đầu tiên, anh huy động tất cả mọi người trong gia đình phát rẫy, đào hố, phối hợp cùng người dân địa phương làm đường dẫn nước từ sông Bạc lên Ngòi Lịp. Tiếp đó, anh đánh liều đến Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Hàm Yên vay 400 triệu đồng. Con số ấy với nhiều người dân địa phương là một món tiền quá lớn và ít ai tin anh Phò sẽ vay được. Nhưng, sau khi khảo sát mô hình trồng cam và định hướng làm ăn, phát triển kinh tế trang trại của anh Phò, ngân hàng đã đồng ý cho vay vốn hỗ trợ lãi suất.

    Biến không thành có


    Khi khởi nghiệp, mọi thứ vô cùng khó khăn. Anh Phò lo, các cán bộ ngân hàng cũng lo chẳng kém. Ngay vụ cam đầu tiên, gia đình anh Phò mất trắng vì thiên tai. Không nản, anh Phò dồn hết số tiền còn lại để tiếp tục đầu tư vào trồng cam, nuôi gà và lợn. Cuối cùng thì trời cũng không phụ lòng người, từ vụ cam thứ hai trở đi, gia đình anh Phò liên tục thắng lớn. Ở lần thu hoạch gần nhất, 10ha cam đã mang về cho gia đình anh gần 200 tấn quả, nếu tính theo giá thị trường là 10.000 đồng/kg thì sau khi trừ đi các chi phí, gia đình anh Phò đã lãi 1,5 tỷ đồng.

    Nhờ có người tiên phong như anh Phò, Khuổi Mù từ chỗ là thôn nghèo giờ đã thành thôn giàu ở xã Vĩnh Hảo vì bà con học tập và làm theo anh Phò. Anh Phò khẳng định: "Đất và cam ở Khuổi Mù này, nếu biết cách làm ăn thì lo gì không đạt được hiệu quả. Quan trọng là ý chí và sự hỗ trợ về vốn đúng lúc mà thôi". Lời bộc bạch của anh Phò chẳng sai chút nào bởi cam sành Hàm Yên đã được bầu chọn là 1 trong 50 loại quả có giá trị nhất Việt Nam và được rất nhiều người biết tiếng.

    Có được đà, anh Phò mong muốn phát triển thương hiệu hơn nữa, để cam sành Hàm Yên có thể xuất khẩu ra nước ngoài. Để có được điều đó, anh không giấu giếm ý tưởng sẽ thành lập một hội cam sành Hàm Yên ở Khuổi Mù, để mọi người có thể trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ nhau về vốn cũng như sản xuất, tiêu thụ. Nghe chuyện, ông Tuấn khẳng định: "Nếu ý tưởng ấy thành hiện thực, ngân hàng chúng tôi sẵn sàng ủng hộ và giúp nông dân vay vốn để làm ăn, phát triển kinh tế".

    Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

    Trồng sầu riêng lãi 360 triệu đồng/năm

    Nhiều năm liền, anh Văn Thành Trưởng ở ấp Hiệp Phú, xã Hiệp Đức (Cai Lậy, Tiền Giang) đã chủ động xử lý để sầu riêng ra hoa trái vụ, khắc phục trình trạng được mùa mất giá, thu lợi nhuận 360 triệu đồng/năm.

    Trước đây, gia đình anh Trưởng canh tác 9.000m2 ruộng sản xuất 3 vụ lúa/năm, năng suất bấp bênh. Năm 2003, sau khi có hệ thống đê bao khép kín, anh chủ động lên mô trồng 195 gốc sầu riêng hạt lép giống Ri 6, dưới ruộng cấy lúa theo phương thức lấy ngắn nuôi dài, đồng thời tận dụng rơm, rạ ủ hoai bón gốc, giúp cây phát triển.


    Sau 5 năm cây cho trái, anh lên mương để tiện việc chăm sóc. Hàng năm, vào khoảng tháng 5 âm lịch, sầu riêng cho thu hoạch sản lượng cao nhưng do đây là mùa thuận nên hàng dội chợ, thương lái ép giá. Thông qua tập huấn khuyến nông, anh chủ động xử lý cho cây ra hoa trái vụ bằng cách sau mỗi vụ thu hoạch, tỉa những cành, chồi thừa, chú trọng bón phân chuồng, phân hữu cơ, phân sinh học,... Đồng thời, anh phun thuốc bảo vệ thực vật phòng trừ sâu bệnh, dưỡng lá, giúp cây phục hồi và ra đọt non đồng loạt.

    Vào khoảng tháng 7 âm lịch, khi cây ra đủ 3 cơi đọt, lá chuyển sang lụa, anh Trưởng đào hộc xung quanh gốc sầu riêng khống chế bộ rễ, dùng màng nylon phủ kín gốc, điều tiết nước cạn trong mương kết hợp phun thuốc kích thích giúp cây ra hoa. Khoảng 1 tháng hoa ra nhị, anh dùng chổi thụ phấn nhân tạo, phun thuốc định kỳ, bón phân nuôi trái, tỉa bớt trái xấu, để cây mang trái vừa đủ, hạn chế cây suy yếu.

    Hơn 4 tháng sau cây cho thu hoạch (khoảng tháng 11 âm lịch), thời điểm này sầu riêng hiếm, thương lái đến tận vườn mua giá đến 30.000 - 35.000 đồng/kg. Nhờ áp dụng đúng các quy trình kỹ thuật từ khâu chăm sóc, chọn giống, bón phân, tỉa cành hợp lý, vụ sầu riêng nghịch nào anh cũng trúng mùa, trúng giá, sản lượng đạt 17 tấn/năm. Không chỉ sản xuất, kinh doanh giỏi, anh còn khuyến khích nông dân mạnh dạn cải tạo vườn tạp, trồng các loại cây có múi giá trị kinh tế cao, sinh hoạt câu lạc bộ khuyến nông ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, từng bước nâng cao hiệu quả vườn chuyên canh nâng cao mức sống gia đình.

    Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

    Đứng lên từ thất bại

    Đổ biết bao mồ hôi, công sức, vợ chồng ông Nguyễn Văn Tấn (thôn Tân Hiệp, xã Tân Liên, huyện Hướng hoá, Quảng Trị) mới có được 1 mẫu tiêu, hàng năm thu hoạch trên 3 tấn tiêu khô, thu hàng trăm triệu đồng.

    Tuy nhiên, đang ăn nên làm ra thì năm 1996, bệnh lạ tấn công làm cho vườn tiêu của ông chết không còn 1 cây. "Bao nhiêu vốn liếng trong gia đình, vợ chồng tôi đổ hết vào cứu vãn vườn tiêu. Nhưng do bệnh lạ, không có thuốc chữa trị hữu hiệu nên vườn tiêu chết hàng loạt. Gia đình tôi hoàn toàn trắng tay. Tôi suy sụp. Nhưng may được sự động viên của vợ con cũng như chính quyền địa phương, tôi quyết định làm lại một lần nữa" - ông Tấn nhớ lại.


    Lò ấp trứng gia cầm của ông Tấn.

    Không cam chịu nghèo đói, ông Tấn quyết định chuyển đổi từ trồng hồ tiêu sang trồng cà phê. Đồng thời, ông xây chuồng trại để chăn nuôi lợn, gia cầm... để lấy ngắn nuôi dài. Hiện, ông có gần 100 con lợn thịt, hàng trăm con gà, vịt. Mỗi năm, trừ chi phí, ông lãi ròng 200 triệu đồng từ chăn nuôi. Ngoài ra, ông còn đầu tư 2 lò ấp trứng gà, vịt để phục vụ con giống cho gia đình cũng như cho bà con địa phương. Nhờ vậy, ông giảm được chi phí trong chăn nuôi. Đó là chưa tính đến vườn cà phê giá trị bạc tỷ của ông.

    Ông Tấn không chỉ là người làm kinh tế giỏi mà còn luôn giúp đỡ, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt cho nhiều nông dân trong xã. Nhiều gia đình nghèo đói, được ông động viên, hướng dẫn làm ăn không những thoát nghèo mà giờ đây đã khá giả. "Trước đây, gia đình tôi nghèo lắm, đất đai nhiều nhưng không biết nên làm gì. Từ khi được anh Tấn động viên, hướng dẫn nuôi lợn, gà, vịt... giờ gia đình tôi đã có của ăn của để" - ông Nguyễn Kỳ (thôn Tân Hiệp) tâm sự.

    Ông Phạm Cáng - Chủ tịch Hội ND xã Tân Liên, nhận xét: Ông Tấn là ND SXKD giỏi điển hình của xã, ông luôn giúp đỡ mọi người phát triển kinh tế. Ông cũng là người đi đầu trong sáng lập Hội Khuyến học của xã. Năm nào, ông cũng ủng hộ Hội Khuyến học của xã cả chục triệu đồng.

    Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2014

    Thu nhập cao nhờ kết hợp trồng rừng, nuôi bò

    Từ cuộc sống cực khổ, phải lo bữa ăn từng ngày, nhưng nhờ cách làm ăn mới, anh Hoàng Văn Tánh ở thôn Trung Long (Quảng Trị) đã thoát nghèo và có 'của ăn của để.

    Là con thứ 3 trong gia đình nghèo có 6 anh em, học hết lớp 7 anh Tánh đi làm thợ xây kiếm tiền phụ giúp cha mẹ. Năm 1993 lập gia đình, theo tiếng gọi của chính quyền, anh rời quê hương xã Triệu Trung lên vùng kinh tế mới ở thôn Trung Long (Quảng Trị) lập nghiệp.

    Mang quyết tâm đổi đời lên quê hương mới, vợ chồng trẻ dựng tạm căn lều nhỏ, ngày đêm chịu khó khai hoang đất đồi trồng rừng phủ xanh đất trống đồi trọc. “Ngày đó vùng này hoang vu lắm, có đêm nằm ngủ trong lều, thú dữ cứ gầm rú bên ngoài sợ đến kinh hoàng. Bữa ăn thì chỉ toàn rau rừng, lâu lâu đi chặt bó củi về miền xuôi bán mới mua được miếng thịt cải thiện”, anh Tánh nhớ lại tháng ngày cơ cực.

    Chính vì những khó khăn buổi ban đầu như thế mà trong hàng trăm người lên vùng Trung Long lập nghiệp, chỉ còn trụ được vài người, trong đó có gia đình anh Tánh. Với lòng quyết tâm làm giàu, anh Tánh đã vượt qua mọi khó khăn để khai hoang và trồng 20ha tràm, trung bình 5-6 năm thu hoạch một lần, bình quân cho anh trên 150 triệu đồng mỗi năm.


    Mỗi năm anh Thắng thu được khoảng 170 triệu đồng từ đàn bò. Ảnh: DV.


    Cùng với khai hoang trồng rừng, năm 1996, anh Tánh mua thêm một cặp bò nuôi gây đàn và bán dần. Từ năm 2008 đến nay, đàn bò của gia đình anh Tánh duy trì 30 con, có 15 con bò cái sinh sản giúp anh tự cung cấp giống. Bò giống nuôi một năm có thể xuất bán với giá 12-18 triệu đồng một con. Mỗi năm anh bán 15 con bò giống và bò thịt, lợi nhuận bình quân được khoảng 170 triệu đồng.

    Không chỉ làm giàu cho bản thân, anh Tánh còn giúp đỡ người dân địa phương về nguồn vốn, kỹ thuật trồng rừng, nuôi bò để cùng phát triển làm giàu.

    Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

    Ông chủ tịch làm trang trại giỏi

    Ông Đỗ Thọ - Chủ tịch Hội ND huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, không những là một cán bộ năng động, nhiệt tình, mà còn là điển hình làm kinh tế giỏi ở địa phương, với doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm từ nuôi gà, cá...

    Trang trại nuôi gà, cá trê của ông Thọ với diện tích hơn 1,5ha nằm ven bờ kênh chính Phú Ninh (Tam Vinh, huyện Phú Ninh). Ông Thọ kể: "Năm 2005, vùng đồi núi Rừng Dàn, thôn Vĩnh Quý, xã Tam Vinh không một bóng người. Thấy đồi núi rất thuận lợi để mở một trang trại, tôi quyết định cùng vợ con ra phát dọn. Lúc đầu tôi phát dọn gần 1ha, rồi trồng keo xung quanh để tạo thành một vòng rào bảo vệ. Khoảng giữa, tôi thành lập một gia trại nuôi gà và đào ao nuôi cá trê.


    Trang trại gà của ông Đỗ Thọ.

    Bán những lứa gà đầu tiên, ông dồn tiền mở rộng diện tích. Hiện trang trại của ông rộng 1,5ha. Mỗi năm ông xuất bán khoảng hơn 20 tấn gà thịt, tổng doanh thu 1 tỷ đồng, trừ hết chi phí, lãi 200 triệu đồng. Thấy trang trại của ông Thọ phát triển tốt, một số hộ dân gần đó học hỏi làm theo. Thế là từ một đồi núi hoang vu giờ có gần 10 gia trại nuôi gà, heo, cá... Tất cả đều có thu nhập cao.

    Ông Thọ chia sẻ: "Với trách nhiệm của mình, tôi cùng với tập thể Hội tuyên truyền, vận động, tuyên truyền cho hội viên ND chính sách của Đảng, chủ trương của Nhà nước, nhất là áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giúp nhau xóa đói giảm nghèo".

    Ông Vũ Văn Thẩm - Chủ tịch Hội ND tỉnh Quảng Nam, nhận xét: "Tuy mới được bầu làm Chủ tịch Hội ND huyện Phú Ninh (tháng 10.2012), nhưng ông Thọ dành nhiều thời gian đi cơ sở để hướng dẫn ND kinh nghiệm mà mình tích luỹ được để phát triển kinh tế. Riêng trang trại của ông Thọ, theo tôi đây là mô hình hiệu quả. Hội ND tỉnh sẽ lấy trang trại của ông Thọ là điểm cho các cấp hội trong tỉnh đến nghiên cứu, học tập về hướng dẫn hội viên, ND địa phương mình làm".