Trang

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Nuôi heo bằng thức ăn ủ men

Sử dụng thức ăn ủ men giúp tiết kiệm hơn thức ăn công nghiệp 570.000 đ/con heo.
Anh Nguyễn Phi Long với đàn heo thịt sử dụng thức ăn ủ men

Đó là mô hình nuôi heo của anh Nguyễn Phi Long ngụ tại ấp Trảng Sắn, xã Vĩnh Hòa, huyện Phú Giáo, Bình Dương.

Sử dụng thức ăn ủ men giúp anh tiết kiệm hơn thức ăn công nghiệp 570.000 đ/con heo. Với khoảng 600 heo thịt nuôi xuất chuồng hàng năm (1 năm nuôi 2 lứa heo thịt) cho anh thêm lợi nhuận 342 triệu đồng.

Sử dụng thức ăn ủ men cho heo ăn cho kết quả tốt hơn khi sử dụng thức ăn công nghiệp, cụ thể là đối với heo nuôi thịt giúp giảm mùi hôi trong chăn nuôi, giảm 80 - 90% bệnh tiêu chảy ở heo, đặc biệt là giai đoạn heo con; heo thịt khỏe mạnh, da hồng hào; tiêu hóa tốt và heo ăn nhiều hơn, phân thải ra ít hơn; chất lượng thịt tốt, thương lái rất thích mua heo ăn thức ăn ủ men này.

Đặc biệt là khi dùng thức ăn ủ men giá thức ăn giảm 10% (khoảng 1.000 đ/kg thức ăn ) và rút ngắn thời gian nuôi 10 - 15 ngày so với cách nuôi truyền thống.

Đối với heo nái mang thai và heo nái nuôi con, khi sử dụng thức ăn ủ men cũng cho kết quả rất tốt.

Heo nái nuôi con cho sữa tốt, heo con bú sữa mẹ hồng hào, mập mạp, phân thải ít do tỷ lệ tiêu hóa tăng.

Heo nái sau cai sữa mau lên giống và vẫn giữ được thể trạng rất tốt sau 2 tháng nuôi con.

Theo anh Long, sau 25 ngày nuôi heo con (thời điểm cai sữa) thì đến ngày thứ 27, nghĩa là sau 2 - 3 ngày tách heo con thì heo mẹ đã lên giống và tỷ lệ phối đậu thai đạt cao trên 95%; mặt khác sử dụng thức ăn ủ men chi phí thức ăn giảm hơn 10% so với thức ăn công nghiệp.

Kinh nghiệm ủ men cho heo từ 20 - 40 kg nuôi thịt đơn giản như sau: Hòa 1 gói men vi sinh hoạt tính (0,5 kg) cùng với 1 kg gỉ mật đường vào 30 lít nước sạch và ủ kín 2 ngày. Sau đó trộn đều hỗn hợp trên với 55 kg bắp nghiền và 25 kg cám gạo, cho vào bao nilon buộc kín miệng tại tạo môi trường yếm khí, sau ủ 2 ngày có thể lấy ra cho heo ăn.

Nếu lấy ra cho ăn và lại cột kín lại thì hỗn hợp ủ này có thể để 10 ngày. Trước khi cho heo ăn, trộn hỗn hợp ủ này với 20 kg thức ăn heo thịt đậm đặc (46% đạm). Có thể cho heo ăn trực tiếp hỗn hợp trên hoặc hòa với nước.

Bà con có nhu cầu tìm hiểu, học hỏi phương pháp nuôi heo bằng thức ăn ủ men vi sinh hoạt tính, có thể liên hệ với anh Nguyễn Phi Long ngụ tại ấp Trảng Sắn, xã Vĩnh Hòa, huyện Phú Giáo, Bình Dương số điện thoại 0983353332.

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

Người lính già làm giàu từ ba ba và nhím

Từ một cựu chiến binh nghèo, rồi liên tục làm ăn thua lỗ, đến nay, ông Hùng (thị trấn Kỳ Sơn, Hòa Bình) đã dần khẳng định được hướng đi đúng của mình là nuôi con đặc sản. Mỗi năm thu ròng 1,2 tỷ đồng khiến ông trở thành nông dân giỏi được nhiều biết đến.

Ông là Đỗ Mạnh Hùng 54 tuổi, một cựu chiến binh ở khu I, thị trấn Kỳ Sơn, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình.

Sau 7 năm trong quân đội, xuất ngũ năm 1982 trở về địa phương sản xuất, ông Hùng ngày đêm trăn trở để tìm hướng để thoát nghèo. Nghề đầu tiên mà ông thử sức là làm gạch. Để có vốn đầu tư, ông phải vay vốn ở bên ngoài với lãi suất rất cao, khi bắt tay vào việc lại gặp rất nhiều khó khăn, sản phẩm làm ra phải đi mời chào từng khách hàng, thời tiết lại không ủng hộ, nhiều lần nước lũ tràn về làm ông mất trắng, vì vậy cuộc sống vẫn khó khăn chồng chất. Tuy nhiên ông vẫn cùng vợ con quyết không chịu lùi bước. Công sức lao động của ông bắt đầu được đền đáp, cuộc sống thoát dần cảnh nghèo.

Ông Hùng đang xem xét số ba ba gai giống. Ảnh: Kim Dung.

Chưa hài lòng với cuộc sống hiện tại, qua sách báo, ông nhận thấy thị trường có xu hướng tiêu thụ mạnh các loại con đặc sản. Năm 2006, ông lặn lội lên tận Yên bái, Sơn La để học hỏi kinh nghiện nuôi ba ba, rồi mua con giống về nuôi. Nhưng do nóng vội lại chưa có kinh nghiệm nên ông đã nhanh chóng thất bại, 60 triệu đồng đổ vào số ba ba và xây dựng chuồng trại coi như “bốc hơi”.

Không nản chí, người cựu chiến binh lại một lần nữa lên Yên Bái để mua về giống ba ba gai. Ba ba gai là giống hay ăn, chóng lớn và ít bệnh tật, giá bán cao từ 1,6 đến 2 triệu đồng mỗi kg, gấp 4 lần ba ba trơn. Lúc đầu ông chỉ nuôi ba ba thương phẩm, nhưng nhận thấy thị trường Hòa Bình chưa có nơi nào cung cấp giống, vì vậy ông nuôi thêm cả ba ba giống để quay vòng khi xuất ba ba thịt, đồng thời cung cấp con giống cho những người có nhu cầu.

Hiện nay, trong vườn nhà ông có 12 ô ao nuôi ba ba trong đó có 8 ô nuôi ba ba đẻ và 4 ô nuôi ba ba gai thương phẩm. Với cách nuôi xoay vòng, bé thì bán giống lớn thì chuyển sang nuôi để bán thịt, trong vườn nhà ông Hùng không những không thiếu ba ba để nuôi mà còn để cung cấp cho nhiều người có nhu cầu về giống ba ba trong vùng và các vùng lân cận.

Ông tâm sự: “Nuôi con gì cũng vậy, trước tiên phải có tâm huyết với con vật mình nuôi, không nản chí, thứ hai quan trọng phải có kỹ thuật nuôi và người nuôi phải có kinh nghiệm thì nhất định sẽ thành công”.

Chẳng hạn, sau một thời gian nuôi ông nhận thấy ba ba gai có một đặc tính khác với ba ba thường là lớn rất nhanh, lại không tốn diện tích sống. Một ô ao rộng khoảng 30 – 40m2 có thể thả được 100 con giống, thức ăn của ba ba dễ kiếm chỉ là ốc, nhái, cá nhỏ, giun…Tuy nhiên môi trường sống của ba ba gai lại đòi hỏi phải sạch: thành ao xây cao, rải cát ở mép bờ để cho ba ba bò lên đẻ.

Giá một con ba ba giống hiện nay ông bán từ 450.000 đến 500.000 đồng mỗi con. Đến nay gia đình ông có gần 200 con ba ba thương phẩm, chưa kể ba ba đẻ và con giống. Một năm trừ chi phí, gia đình ông thu về trên 400 triệu đồng từ tiền ba ba.

Không chỉ dừng lại ở nuôi ba ba, năm 2008, xem tivi có nói đến việc nuôi nhím làm giàu, ông quyết định tiếp tục thử sức với nghề này, bắt đầu từ việc thăm các mô hình nuôi nhím ở Ba Vì (Hà Nội) và Sơn La. Ban đầu ý tưởng của ông bị vợ ngăn cản quyết liệt, vì cho rằng nuôi nhím có nhiều rủi ro, chẳng may hỏng thì chỉ có nước đem bán “củi”, vì con nhím giống có giá thành cao, những hơn 10 triệu đồng mỗi cặp. Tuy nhiên trước sự quyết tâm của ông cùng với sự động viên của bạn bè, ông đã mang về nhà 10 cặp nhím giống, và rồi thêm 60 đôi nhím giống nữa.

Ông Hùng đang cho nhím ăn. Ảnh: Kim Dung.

Hiện tại trong chuồng nhà ông có gần 200 con nhím giống to nhỏ các loại. Ông Hùng cho biết mỗi cặp nhím trưởng thành có giá khoảng 25 đến 27 triệu đồng, nhím mẹ đang chửa có giá 40 triệu đồng và đôi nhím con có giá 16 triệu đồng.

Thăm khu chuồng trại nuôi nhím và ba ba của ông Hùng mới thấy được tính khoa học, bài bản trong cách làm của ông. Mỗi ô nuôi nhím và nuôi ba ba đều được đánh số cẩn thận để tiện cho việc theo dõi và lai giống để tránh trùng huyết thống. Chuồng trại đảm bảo được các yếu tố kỹ thuật như thông thoáng về mùa hè, ấm áp về mùa đông, hệ thống cống rãnh được xây dựng kiên cố dưới nền chuồng trại.

Ông Hùng tâm sự: Thời gian đầu khi đưa ra ý tưởng nuôi ba ba rồi đến nuôi nhím, ông không những không được vợ con ủng hộ mà ngược lại bị phản đối rất quyết liệt, cho rằng ông vẽ chuyện. Tuy nhiên, bây giờ thì ông chứng tỏ được mình đã quyết định đúng.

Ông Phí Văn Bằng, Phó Chủ tịch Hội nông dân huyện Kỳ Sơn nhận xét: "Ông Hùng là một cựu chiến binh, một hội viên hội nông dân tiêu biểu đã biết cách làm giàu chính đáng cho gia đình và bản thân trên chính mảnh đất của gia đình".

Có thể nói mô hình nuôi ba ba kết hợp với nuôi nhím đã đem lại thành công. Từ chỗ gia cảnh khó khăn, đến nay, mỗi năm ông Hùng thu về khoảng 1,2 tỷ đồng, nhờ đó, cuộc sống gia đình đã thay đổi đáng kể, ngôi nhà cũ nay được thay bằng ngôi nhà 2 tầng khang trang, nhiều tiện nghi hiện đại đã được trang bị.

Không chỉ làm ăn giỏi, ông Hùng còn tích cực tham gia các phong trào hoạt động ở địa phương, và sẵn sàng giúp đỡ về kỹ thuật nuôi nhím và ba ba cho những ai có nhu cầu. Hiện tại ông là Chi hội phó chi hội cựu chiến binh khu I, đại biểu hội đồng nhân dân thị trấn Kỳ Sơn. Ông cũng tiết lộ trong thời gian tới sẽ mở rộng việc chăn nuôi gà đen để không ngừng làm giàu cho gia đình và xã hội.

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

Lập trình viên đam mê nuôi sâu

Chàng trai 8x hiện là chủ trang trại 300m2 ở Bình Dương chuyên nuôi super worm, cho doanh thu đều đặn mỗi tháng.

Anh Nguyễn Đức Trọng (sinh năm 1988), phố Châu Thới, phường Bình An, thị xã Dĩ An, Bình Dương tốt nghiệp một trường đào tạo lập trình viên. Tai nạn từ năm 6 tuổi khiến anh mất một bàn tay. Ra trường, anh xin việc khá khó khăn. Có sở thích nuôi gà chọi nên anh Trọng hay mua sâu super worm về cho ăn. Từ đó, anh nảy ra ý tưởng học cách nuôi loại côn trùng này để phục vụ thú nuôi cá rồng hoặc chim quý hiếm.

Anh Trọng đến một số trang trại để học hỏi kinh nghiệm và bắt tay vào nuôi sâu được hơn 3 năm nay. Khi khởi nghiệp, công việc không suôn sẻ như những gì anh tưởng tượng. 

Một trong những quy trình nuôi sâu là ép con bọ để sinh ra nhộng. Ảnh minh họa

"Mấy lứa đầu, con sâu rất khỏe mạnh, sinh sản và phát triển đều đặn. Chỉ sau một thời gian, sâu liên tục bị bệnh rồi lăn ra chết", anh Trọng cho hay. Và không ít lần anh phải "nếm trái đắng" khi một sâu chết cả đàn, thua lỗ cả chục triệu đồng. Nhiều đồng nghiệp, thậm chí người trước đây truyền nghề cho anh cũng lần lượt không nuôi loại côn trùng này nữa.

Anh dành thời gian nghiên cứu các tài liệu của nước ngoài về các loại bệnh và cách chăm sóc sâu. Khoảng một tháng sau, anh bắt đầu nuôi lại và ứng dụng những điều đọc từ các tài liệu đó để phòng và chữa bệnh cho sâu. Những kiến thức đó đã phát huy hiệu quả.

Từ diện tích nhỏ chỉ vài chục m2, hiện trang trại của anh được mở rộng ra khoảng 300m2. Trên diện tích này có khoảng 100 khay gỗ để nuôi sâu. Và cứ 35 đến 40 ngày, mỗi khay gỗ có thể sản sinh ra 20kg sâu thương phẩm.

Chủ trang trại này chia sẻ diện tích không phải là vấn đề với một người muốn khởi nghiệp, chỉ cần 15m2 là có thể nuôi được. Mỗi kg con giống gồm 1.000 đến 1.200 con, sẽ sinh sản được trong vòng 6-8 tháng.

Mỗi cân giống, nếu ép nhộng tốt thì sau 35 đến 40 ngày sẽ phát triển được khoảng 5kg sâu thương phẩm. Anh Trọng cũng tính toán, chi phí để nuôi một kg sâu giống đến khi có thành phẩm và bán ra thị trường chỉ vào khoảng 50.000 đến 60.000 đồng (gồm khoảng 4kg cám gà con và 10.000 đồng tiền thuốc). Khi xuất bán ra thị trường giá mỗi kg sâu là khoảng 100.000 đến 120.000 một kg. Với 5kg sâu thương phẩm, chủ trang trại có thể được lãi 400.000 đến 500.000 đồng, tùy giá từng thời đểm.

Để ươm sâu giống thì anh phải nuôi lâu hơn, khoảng 90 ngày mới có thể ép nhộng. Chủ trang trại cũng tính toán để có số sâu giống gối đầu hợp lý, đảm bảo việc sinh sản đều đặn.

Anh Trọng chia sẻ, một trong những ưu điểm khi nuôi loại côn trùng này là không tốn quá nhiều chi phí thức ăn. "Chúng chủ yếu ăn cám gà con, cám gạo hoặc rau củ quả... Mỗi ngày chúng chỉ ăn hai bữa nên cũng không quá vất vả. Tuy nhiên, người nuôi thường phải chú ý 3 kỹ thuật quan trọng nhất là ép như thế nào cho con sâu nở nhiều nhộng, chăm sóc sao cho đến ngày thứ 20 sâu không bị chết, làm sao để con sâu có màu vàng, chứ không bị đen thì chẳng bán được cho ai", anh cho hay.

Hiện bên cạnh việc phát triển trang trại của mình, anh Trọng còn hướng dẫn kỹ thuật nuôi, làm trang trại và bán giống cho những người có nhu cầu phát triển mô hình này. Ngoài ra, do nhu cầu thị trường khá lớn nên anh Trọng còn thu mua của một số mối nữa để bán sỉ ra thị trường. "Những ai đến nhà tôi học kỹ thuật nuôi và mua giống thì tôi bao đầu ra luôn cho họ. Cả sản phẩm của nhà và hàng nhập, mỗi tuần tôi bán sỉ cho đầu mối khoảng 5-6 tạ sâu", chủ trang trại cho hay.

Tuy nhiên, chủ trang trại này cũng cho biết, loài sâu này chỉ phù hợp với khí hậu nóng, ổn định ở miền Trung hoặc miền Nam. Một số người ở miền Bắc cũng học kỹ thuật nuôi nhưng do khí hậu không hợp nên khó thành công.

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Chàng trai 9X làm giàu từ chim trĩ đỏ

Mỗi tháng, Thắng có thể thu lãi hàng chục triệu đồng từ khu trại rộng hơn 2.000m2 nuôi chim trĩ đỏ.

Nguyễn Văn Thắng sinh năm 1990 ở Lý Nhân, Hà Nam. Tốt nghiệp cấp 3 năm 2009, anh đến giúp việc cho trại nuôi chim của người chú. Một năm sau, anh về nhà cùng gia đình xây dựng trại nuôi chim trĩ đỏ với diện tích khoảng 30m2, vốn đầu tư khoảng 30-40 triệu đồng.

"Trang trại của chú mình nuôi rất nhiều loại chim, cả bán thịt và làm cảnh. Tuy nhiên, mình thấy loại chim trĩ đỏ giá vừa phải, chuyên bán lấy thịt sẽ dễ tìm đầu ra hơn nên chọn nuôi", anh kể lý do khởi nghiệp.

Ban đầu, anh nuôi chim nhân giống, rồi mới phát triển dần lên nuôi thịt, cung cấp giống và chim non. Hiện anh có trại nuôi rộng khoảng 2.000m2, lúc cao điểm nuôi trên 1.000 con.

Trang trại của anh Thắng hiện rộng khoảng 2.000m2 với 1.000 con chim trĩ đỏ.

Trước năm 2013, chim trĩ nằm trong sách đỏ nên người chăn nuôi phải làm một số thủ tục, giấy tờ. Mỗi lần xuất bán và vận chuyển Thắng đều phải lên chính quyền xã và kiểm lâm tỉnh xin xác nhận. Từ 2013, chim trĩ đỏ được xếp vào diện động vật được phép chăn nuôi buôn bán bình thường nên việc chăn nuôi cũng như kinh doanh đơn giản hơn.

Thắng cho biết, loài này nếu nuôi thương phẩm thì khoảng 5 tháng có thể xuất bán. Mỗi con trống đến khi bán nặng khoảng 1,4 đến 1,7kg, con mái khoảng một đến 1,2kg. Mỗi tháng, trung bình Thắng xuất bán khoảng 70 đến 100 con chim thịt. Anh cho biết, mỗi con chim thịt nuôi từ nhỏ đến khi xuất chuồng, người nuôi mất chi phí khoảng 110.000 đồng. Với giá bán mặt hàng này khoảng 200.000 đến 220.000 đồng một kg, mỗi tháng riêng loại để thịt, anh Thắng có thể thu lãi từ 15 đến 20 triệu đồng.

Tuy nhiên, ở miền Bắc, mùa sinh sản của chim chỉ kéo dài từ tháng 2 đến tháng 9 hằng năm nên theo anh, loại chim thịt chỉ đủ để bán từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau. Những tháng còn lại, Thắng chủ yếu bán chim giống (khoảng một tuần tuổi) và chim hậu bị (chuyên để sinh sản). Mỗi năm anh xuất bán khoảng 400 con chim hậu bị với giá 350.000 đồng một con và khoảng 1.000 con chim non với giá 50.000 đồng . Với chim hậu bị phải trên 7 tháng mới có thể xuất chuồng với cân nặng nhỉnh hơn một chút so với loại thịt, trang trại của anh có thể thu lãi 200.000 đồng mỗi con. Còn chim non mới nuôi khoảng một tuần tuổi nên theo anh Thắng chi phí tốn kém không đáng kể.

Hiện tại Thắng cung cấp thịt chim cho các nhà hàng tại Hà Nội, Quảng Ninh, Nam Định... Còn chim giống và hậu bị, khách chủ yếu là các trại nuôi ở nhiều tỉnh lân cận.

Thực phẩm chính của loài chim trĩ đỏ là ngô, rau xanh và một phần cám công nghiệp. "Mặt hàng này hiện nay đầu ra khá ổn định, nhiều thời điểm khan hiếm nguồn cung. Tuy nhiên, người nuôi vẫn cần chú ý điểm quan trọng là vắc xin phòng bệnh lúc chim non, khoảng 20 ngày tuổi đầu tiên", anh lưu ý.

Theo anh, đầu tư cơ sở ban đầu cũng không quá lớn, quan trọng là có diện tích làm chuồng. “Mình đầu tư mỗi chuồng 100m2 thì xây dựng hết khoảng 30 triệu đồng. Ban đầu làm chuồng nhỏ, sau đó mới mở rộng quy mô dần”, Thắng nói.

Ông chủ trẻ cho rằng nuôi chim thương phẩm, bán thịt thì nhanh thu hồi vốn hơn, còn phát triển nuôi giống thì hơi khó, đầu tư lâu dài và phải có kỹ thuật chăm sóc tốt.

Anh Thắng cũng chia sẻ, mặt hàng này trước mắt tuy có lãi nhưng người nuôi cũng không nên phát triển đàn một cách ồ ạt mà phải làm dần dần. "Hơn nữa, người nuôi cũng phải nghiên cứu để nắm bắt tình hình thực tế từng thời điểm mà phát triển số lượng đàn cho phù hợp. Tránh tình trạng nguồn cung quá lớn, giá giảm thì khó tránh khỏi thiệt hại", anh cho hay.

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Nuôi chim trĩ đỏ

Chim trĩ sức đề kháng rất tốt, ít bệnh tật, ít tốn công chăm sóc. Cho chim ăn chủ yếu là thức ăn công nghiệp trộn chung với lúa.
Ông Hoàng hướng dẫn cách nuôi chim trĩ

Năm 2011, ông Nguyễn Văn Hoàng (59 tuổi) ở ấp Bà Điều, xã Lý Văn Lâm, TP Cà Mau (tỉnh Cà Mau) được một người bạn giới thiệu mô hình nuôi chim trĩ đỏ, ông đã đầu tư 30 triệu đồng mua chim giống bố mẹ với giá 3 triệu đồng/cặp. Cộng thêm tiền làm chuồng nuôi, tính tất cả đầu tư khoảng 50 triệu đồng.

Trong thời gian nuôi ông thấy chim phát triển tốt, nên gây giống và mở rộng chuồng trại nuôi thêm.

Chim con từ khi mới nở đến trưởng thành khoảng 1 năm.

Cho chim ăn chủ yếu là thức ăn công nghiệp trộn chung với lúa (lúa được ngâm nước để mềm, chim dễ nuốt).

Chim trĩ sức đề kháng rất tốt, ít bệnh tật, ít tốn công chăm sóc.

Ông Hoàng cho biết, chim trĩ trông khá giống gà chọi, nhưng thấp hơn, nhỏ hơn và nhìn rất đẹp, con đực mầu sắc sặc sỡ. Chim cái đến thời kỳ sinh trưởng, cho trứng suốt 9 tháng, mỗi ngày đẻ 1 quả. Loài chim này không ấp trứng, sau khi đẻ nếu không nhặt trứng thì chim mẹ có thể mổ bể trứng. Vì thế phải xây lò để ấp trứng. Hiệu suất ấp trứng đạt khoảng 50%, tức là 100 trứng được khoảng 50 con chim con.

Gia đình ông Hoàng đang sở hữu 16 chuồng chim giống bố mẹ, mỗi chuồng có 3 con (2 mái, 1 đực).

Với giá bán 1 triệu đồng/cặp chim con 2 tuần tuổi, 1,5 triệu đồng/cặp chim 2 tháng tuổi, 3 triệu đồng/cặp chim trưởng thành, năm vừa rồi ông thu lãi 300 triệu đồng.

Tính riêng đợt xuất chuồng cách đây hơn tháng, với số lượng hơn 100 con chim con 2 tuần tuổi, ông thu hơn 50 triệu đồng.

Trồng táo lãi khá

Với bản tính cần cù, chịu khó, tính toán hợp lý, hiện tại vườn táo của anh nồng dân Bạc Liêu đã có trên 300 cây, trong đó 200 cây 15 tuổi, 100 cây 8 tuổi.

Anh Phương trao đổi kỹ thuật trồng táo

Nhờ triển khai mô hình trồng táo trên bờ kênh mà gia đình anh Phạm Thanh Phương, ngụ ấp Thông Lưu B, thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu có cuộc sống ngày càng ổn định.

Trước đây, anh có 12 công đất trồng lúa và tận dụng bờ kênh trồng rau ngắn ngày. Sau khi cải tạo hệ thống thủy nông, anh đã sử dụng bờ kênh trồng táo.

Năm 1998, thông qua người thân ở Sóc Trăng, anh mua 200 cây táo giống về trồng thử cho kết quả tốt, trừ chi phí còn lãi 60 triệu đồng. Nhận thấy hiệu quả, anh mở rộng diện tích trồng thêm 100 cây.

Với bản tính cần cù, chịu khó, tính toán hợp lý, hiện tại vườn táo của anh đã có trên 300 cây, trong đó 200 cây 15 tuổi, 100 cây 8 tuổi.

Anh Phương cho biết: Táo dễ trồng, ít tốn công chăm sóc, hiệu quả kinh tế cao, giá giống 4.000 đ/cây, lên liếp trồng với khoảng cách cây cách cây 3 m, hàng cách hàng 3m, trồng khoảng 5 năm năng suất mới ổn định, thời gian thu hoạch kéo dài 5 tháng. Vụ rồi năng suất khoảng 70 kg/1 cây 15 tuổi và 50 kg/1 cây 8 tuổi, giá bán 15.000 đ/kg, thương lái đến tận nhà mua.

Cách làm của anh như sau: Thu hoạch trái xong cành nào cắt bỏ cành đó. Sau đó tỉa bỏ tất cả nhánh, sử dụng phân NPK bón cho mỗi gốc 5 kg (4 đợt cho 1 vụ trồng), chỉ sử dụng mỗi cây 3 nhánh khỏe, 10 ngày tưới 1 lần. Để phòng ngừa côn trùng hại trái, anh sử dụng thuốc sinh học và thuốc dẫn dụ ruồi. Cùng với thu nhập từ trồng táo và 2 vụ lúa/năm, năm qua anh thu lãi trên 200 triệu đồng.

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

"Kiện tướng" vú sữa Lò Rèn

Một trong những bí quyết để vườn cây ăn quả luôn sum xuê, cho năng suất cao vừa kéo dài được tuổi thọ là bón phân cân đối.

Ông Nam chăm sóc vú sữa Lò Rèn

Đầu tháng 4/2014, vườn vú sữa Lò Rèn của ông Võ Văn Nam, ngụ tại ấp Vĩnh Bình, xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành (Tiền Giang) cơ bản đã thu hoạch xong với niềm vui được mùa, được giá.

Với tính xởi lởi của người nông dân miệt vườn Nam bộ, ông dẫn chúng tôi đi một vòng vườn quả rộng mênh mông rồi tâm sự: Khu vườn vú sữa Lò Rèn của ông rộng 8.500 m2 (0,85 ha) đã 12 năm tuổi. Trong vườn, để tận dụng đất trống, tăng thêm hiệu quả kinh tế, ông xen canh thêm 150 gốc bưởi da xanh (nay đã 3 năm tuổi). Vú sữa Lò Rèn đã cho thu hoạch ổn định nhiều năm nay còn bưởi da xanh mới cho trái lai rai, chưa đều.

Để có được nguồn thu nhập cao, tạo dựng nên cơ ngơi sự nghiệp vững vàng ở miệt vườn, ông Nam đã phải trải qua một quá trình đầu tư công sức, lao tâm khổ tứ hết sức nhọc nhằn.

Vú sữa Lò Rèn và bưởi da xanh là những cây ăn quả đặc sản nổi tiếng chất lượng thơm ngon nhưng cũng rất khó tính, phạm vi phân bố hẹp, chỉ thích hợp đối với một số địa bàn và trong những mô hình canh tác nhất định

Ông Phan Duy Túc, Chủ tịch Hội Làm vườn huyện Châu Thành nhận xét: “Cái hay của ông Nam là biết áp dụng đồng bộ các giải pháp thâm canh, xây dựng mô hình phù hợp qua đó tăng được năng suất, sản lượng và chất lượng vườn quả. Hiệu quả kinh tế mang lại rất cao. Đây là cách làm mà bà con miệt vườn cần chú ý học tập, áp dụng".

Vú sữa Lò Rèn chỉ có thể trồng được ở một số nơi thuộc Châu Thành, Cai Lậy, những nơi khác của Tiền Giang khó trồng hoặc trồng cho năng suất rất kém, tuổi thọ ngắn.

Bưởi da xanh cũng thế, không thể đưa vào vùng đất phèn Đồng Tháp Mười hoặc vùng đất nhiễm mặn Tân Phú Đông được.

Ngoài ra, do đặc thù canh tác theo kinh nghiệm cổ truyền nên trước đây, năng suất và sản lượng thấp, hiệu quả không được như mong muốn.

Để tăng hiệu quả kinh tế của vườn vú sữa Lò Rèn và bưởi da xanh, không thể không áp dụng đồng bộ các TBKT trong quá trình thâm canh, theo nhận định của ông Võ Văn Nam.

Bản thân ông, khi xác định áp dụng mô hình trồng vú sữa Lò Rèn xen canh bưởi da xanh đã phải đi học hỏi nhiều nơi. Học tập từ kinh nghiệm SX giỏi của những nông dân đi trước và nhờ hướng dẫn của cán bộ khuyến nông kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn.

Ông Nam cho biết, đầu tiên cần phải chọn giống tốt, sạch bệnh; quy hoạch vườn trồng với mật độ hợp lý, không quá dày nhưng cũng không quá thưa, có chế độ chăm sóc để vườn luôn sung mãn, cho năng suất và sản lượng cao, chất lượng trái tốt, thị trường ưa chuộng.

Trung bình mỗi công đất (1.000 m2) ông trồng khoảng 12 cây vú sữa Lò Rèn. Sau 4 năm trồng bắt đầu cho trái, năng suất khi cho trái ổn định đạt từ 12 - 15 tấn/ha.

Còn bưởi da xanh do trồng xen canh, tận dụng đất trống nên xem như nguồn thu nhập phụ. Tuy vậy, với 30 gốc trong tổng số 150 bưởi da xanh vừa qua bắt đầu cho trái, bình quân 60 trái/gốc, mỗi trái nặng 1,5 kg, tính ra mỗi gốc bưởi đạt 90 kg, là khá cao trong mô hình trồng xen canh mà ông đang áp dụng.

Một trong những bí quyết để vườn cây ăn quả luôn sum xuê, cho năng suất cao vừa kéo dài được tuổi thọ là bón phân cân đối, dùng nhiều phân hữu cơ hoai mục thay vì lạm dụng phân hóa học như trước đây.

Ông Võ Văn Nam cho biết, hằng năm ông sử dụng đến 400 bao phân hữu cơ để bón cho vườn. Hiện nay, sau khi dứt vụ vú sữa và bưởi da xanh phục vụ Tết, gia đình ông đang tập trung làm đất, tỉa cành, tạo tán và chăm sóc để chuẩn bị cho vụ mới.

Nói về thu nhập, ông Võ Văn Nam vui vẻ cho biết: “Trong năm vừa qua sản lượng vú sữa Lò Rèn trên 12 tấn quả, bán với giá bình quân 25.000 đ/kg, thu được 300 triệu đồng. Bên cạnh đó, tôi còn thu được gần 3 tấn quả bưởi da xanh, bán với giá bình quân 30.000 đ/kg, thu được gần 90 triệu. Cộng cả hai nguồn thu đạt gần 400 triệu đồng, sau khi trừ chi phí còn lãi 300 triệu".

Đây quả là mức lãi cao so với thu nhập từ độc canh cây lúa hoặc vườn tạp ở địa phương. Những năm tới, khi toàn bộ 150 gốc bưởi da xanh của ông cho thu hoạch ổn định, thu nhập chắc chắn còn tăng mạnh.

"Vua" bơ

Mọi người gọi Trịnh Xuân Mười là "vua" bơ, bởi anh là người hiểu biết hơn ai hết về cây bơ.
Anh Trịnh Xuân Mười cùng tác giả

Mọi người gọi Trịnh Xuân Mười là "vua" bơ, bởi anh là người hiểu biết hơn ai hết về cây bơ và thường xuyên cung cấp giống bơ tốt nhất cho khắp Tây Nguyên và nhiều tỉnh miền núi phía Bắc.

Tôi đến thăm gia đình anh và được anh kể cho câu chuyện thật khó hình dung nổi. Mười quê ở xã Diễn Lợi, huyện Diễn Châu- Nghệ An. Bố mẹ sinh được tới 11 người con (7 trai, 4 gái). Mười có một anh trai là liệt sĩ, một chị gái mất sớm. Gia đình quá nghèo nên một hôm vào năm 1990, ở tuổi 16, Mười đã liều lĩnh trốn nhà vào Nam tìm cách mưu sinh.

Không phải có tài hùng biện, nhưng Mười cũng ra đi với cái túi rỗng, bảo bối của Mười là một chiếc sáo trúc (!). Chúc bé loắt choắt ngày ấy đã liều mạngj leo lên tàu Nam tiến và thổi sáo trên từng toa để xin tiền mua thức ăn và nước uống. Đến ga TP Nha Trang, Khánh Hòa, Mười vội vã xuống tầu. Lang thang hết chợ nọ chợ kia ở Nha Trang để làm thuê kiếm cơm, trong một lần phụ xe lên Đắk Lắk, Mười đã quyết định ở lại với Tây Nguyên.

Để bố mẹ khỏi đi tìm, Mười đã gửi thư về và nói cứ yên tâm về anh. Một chặng đường đi làm thuê cho các ông chủ trại cà phê và chủ trại bơ bắt đầu. Sau khi dành dụm mua được một chiếc xe đạp cũ, Mười bắt đầu chuyển sang nghề mua gom bơ để bán cho thương lái. Sau 6 năm làm việc vất vả, ở tuổi 22, Mười làm quen với cô Phan Thị Thanh, một cô gái nhà nghèo gốc Quảng Nam. Hai người lấy nhau với một quyết tâm cùng phấn đấu thoát nghèo.

Tới năm 2002 thấy có người bán 1,3 ha đất vì trồng cà phê thua lỗ, anh gom số tiền tích lũy được và vay thêm ngân hàng để mua với giá 55 triệu đồng. Đấy là cơ ngơi đầu tiên của vợ chồng anh. Anh tìm thầy học hỏi về kỹ thuật ghép hai giống bơ khác nhau.

Nhiều khi anh chở sọt đi vào các buôn làng xa xôi lùng mua trái cây về bán cho thương lái. Những lần đạp xe vào các nương rẫy mua bơ về bỏ mối, để ý đến những cây bơ cho trái rất ngon, anh ấp ủ ý định đem về làm giống.

Thế nhưng hạt bơ giống ấy sau bảy năm chăm bẵm lại cho ra loại quả hoàn toàn khác, không ngon như ban đầu. Làm sao để có thể tạo ra giống bơ ngon? Câu hỏi ấy thôi thúc Mười đến Viện KHKT Nông lâm nghiệp Tây Nguyên tìm hỏi cách lai ghép giống bơ.

Câu trả lời là hiện vẫn chưa ai nghiên cứu đề tài này cả. Anh lại lân la đến các nhà vườn bán giống cây trồng để tìm hiểu học hỏi phương pháp lai giống, rồi tìm thêm sách vở tài liệu đọc. Kiên trì tìm kiếm, cuối cùng, anh đã rút ra phương pháp lai tạo giống bơ theo cách riêng của mình dựa trên nguyên lý "tính di truyền quyết định bởi cành ngọn".

Anh tiến hành ghép mắt chồi của cây bơ giống tốt lên thân cây bơ địa phương được ươm bằng hạt. Năm 2006, những quả bơ ghép đầu tiên bắt đầu cho thu hoạch. Không chỉ rút ngắn được thời gian cho quả, giống bơ mới còn cho quả rất sai, quả đều, khi chín cơm vàng, béo ngậy.

Đến năm 2007, được một dự án giúp sức quảng bá, thương hiệu bơ DAKADO đã có mặt trong hệ thống các siêu thị lớn và thị trường toàn quốc. Tháng 5/2010, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH- CN) đã ra Quyết định số 22987 chấp nhận đơn hợp lệ đăng ký nhãn hiệu “BXM” tức Bơ Xuân Mười. Anh sở hữu bốn gióng bơ quý là BXM1,BXM2, BXM4 và Bơ muộn tháng 10.

Một mốc quan trọng đánh dấu sự bứt phá trong kinh doanh đó là việc Mười phát hiện thấy bơ chính là cây lý tưởng để che bóng và hạn chế tác hại của mưa bão đối với cây cà phê. Mọi người đã trồng thử khá nhiều loại cây, phổ biến nhất là các cây muồng thuộc họ đậu.

Cây này ưu điểm là vì có bộ rễ có nốt sần chứa các vi khuẩn có khả năng cố định đạm từ không khí để làm giàu cho đất (đấy là tôi giảng giải cho Mười biết) nên không tranh giành thức ăn với cà phê. Tuy nhiên vừa tốn đất mà không tạo ra sản phẩm gì.

Nhiều người chuyển sang trồng sầu riêng và cũng đã có thu hoạch thêm từ sầu riêng. Nhưng sầu riêng có độ che phủ không thật thích hợp, hơn nữa lại tranh chấp thức ăn với cà phê. Mười nhận thấy những cây lâu năm có cành lá xum xuê nhưng lại không che quá mức ánh sáng, do đó rất thích hợp cho các cây cà phê mọc dưới tán lá cây này. Hơn nữa thu hoạch của cây bơ trồng xen về giá trị kinh tế còn cao hơn nhiều so với cây cà phê.

Anh quyết định mở rộng diện tích SX 4 giống bơ lai để cung cấp cho các nương cà phê ở khắp Tây Nguyên. Các giống bơ này đã nhanh chóng lan rộng tới cả nhiều tỉnh niền núi phía Bắc. Mười trở thành chủ một trại bơ rộng mênh mông tại xã Hòa Thắng, một xã cách không xa sân bay Buôn Mê Thuột.

Anh lập ra Công ty TNHH Trịnh Mười có văn phòng tại số nhà 137 đường Nguyễn Thái Bình, TP Buôn Ma Thuột. Công ty phát triển dần dần để trở thành một trung tâm khuyến nông dành riêng cho cây bơ. Mười lập trang blog www.botrinhmuoi.vn để giới thiệu kỹ thuật trồng bơ và chăm sóc bơ.

Vườn ươm giống bơ của anh Mười

Trại cây giống bơ của Mười trông thật thú vị. Mỗi cây giống bán được 45 -50 nghìn đồng mà lúc nào cũng có hàng vạn cây chuẩn bị xuất giống. Tôi hỏi Mười liệu có lo thừa giống không? Mười cười hồn nhiên: Có đủ đâu thầy, khắp các tỉnh Tây Nguyên đến mua vì mọi người bắt đầu thấy bơ là cây lý tưởng để che bóng cho cà phê. Hơn nữa thu nhập từ quả bơ (bán quả về TPHCM, Hà Nội và các thành phố khác) đâu có kém.

Với mong ước để nhiều nông dân thoát nghèo và làm giàu, ngoài việc cung cấp các giống cây có bảo đảm về năng suất và chất lượng, Mười còn thường xuyên hướng dẫn trực tiếp hay qua trang web về kỹ thuật trồng bơ, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho bơ. Anh được bà con tin yêu và tôn anh lên danh hiệu "vua" bơ.

Năng suất quả bơ với giống cây do Mười cung cấp như sau: Năm thứ 3 - ra quả bói khoảng 30 kg/cây. Năm thứ 4 từ 80 - 100 kg quả/cây. Năm thứ 5 từ 150 - 200 kg quả/cây. Năm thứ 6 từ 200 - 250 kg quả/cây. Năm thứ 7 đến 30 từ 250 - 300 kg quả/cây.

Bài toán kinh tế của Mười là như sau: Mỗi ha cà phê nếu không trồng xen bơ thì chỉ cho khoảng 4 tấn nhân, với giá chừng 40 nghìn đồng/kg thì thu được 160 triệu đồng. Trừ đi chi phí mất khoảng 60 triệu thì còn thu được chỉ có 100 triệu đồng. Nếu trồng xen trên mỗi ha cà phê thêm 120 cây bơ thì sau 5 năm trở ra có thể thu được thêm 540 triệu đồng, trừ chi phí khoảng 100 triệu vẫn còn khoảng 440 triệu, cao hơn 4 lần so với chỉ trồng riêng cà phê.

Và như vậy người trồng cà phê sẽ thu được khoảng 700 triệu đồng mỗi năm trên 1 ha đất trồng. Thu nhập về bơ nhẽ ra còn cao hơn nữa nếu được chăm sóc tốt và không bị cắt cành làm giống như ở vườn của Mười. Hiện nay với số đất đai của trang trại gia đình Mười mỗi năm đã thu được trung bình 4,5 - 5 tỷ đồng nhờ bán cây giống, về tiền bán quả bơ trồng xen cà phê là 1,8 tỷ đồng, tiền bán cà phê là 400 triệu đồng.

Như vậy là mỗi năm vợ chồng Mười thu được 7 tỷ đồng và trở thành tỷ phú trên vùng Tây Nguyên. Ngoài chi phí cho gia đình với hai con gái và một con trai, anh đã dùng toàn bộ số tiền còn lại để mua thêm đất và trang trại của anh chị đang ngày một mở rộng thêm.

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

Ba ba, cua đinh thu tiền tỷ

Ông Huỳnh Công Thủ nuôi 10.000 con ba ba và 250 cua đinh giống trên diện tích 2.200 m2 mỗi năm thu lãi gần 1 tỷ đồng.

Ông Thủ kiểm tra cua đinh bố mẹ

Ông Huỳnh Công Thủ ở ấp Láng Hầm B, xã Thạnh Xuân (Châu Thành A, Hậu Giang) nuôi 10.000 con ba ba và 250 cua đinh giống trên diện tích 2.200 m2 mỗi năm thu lãi gần 1 tỷ đồng. Từ việc canh tác lúa kém hiệu quả, người nông dân này đã phá vườn đào ao nuôi ba ba, cua đinh cho hiệu quả kinh tế cao. Năm 2007, ông Thủ mạnh dạn đầu tư đào ao với diện tích 500 m2, thả nuôi 2.500 con ba ba, sau 2 năm thu hoạch lãi trên 75 triệu đồng.

Thấy hiệu quả nên ông Thủ tiếp tục mở rộng thêm 3 ao nuôi với diện tích mỗi ao 500 m2 thả nuôi tổng số 10.000 con ba ba và xây dựng 12 bể, tổng diện tích 200 m2 thả 250 con cua đinh. Nguồn thức ăn cho ba ba, cua đinh là cá tạp, ốc bươu vàng, cá biển, thức ăn công nghiệp...

Từ khi thả nuôi đến 1 năm thì tiến hành phân loại đực cái, nuôi tiếp 1 năm sẽ thu hoạch. Nuôi 2 năm trọng lượng ba ba đạt từ 1.1 - 1.2 kg/con. Chi phí cho 1 kg ba ba và cua đinh thịt khoảng 70.000 đồng. Trung bình giá ba ba thương phẩm từ 150.000 - 300.000 đ/kg tùy loại, còn giá cua đinh 600.000 - 1.000.000 đ/kg.

Không chỉ là người nuôi ba ba tiên phong trong xã mà ông Thủ còn là Chủ nhiệm HTX. Năm 2009, do số lượng nuôi ngày càng gia tăng và để có đầu ra ổn định hơn nên ông quyết định thành lập HTX nuôi ba ba Thạnh Lợi, với 11 xã viên, tổng số diện tích 10.000 m2 thả nuôi trên 40.000 con ba ba, 1.000 con cua đinh. Mỗi xã viên thả nuôi với diện tích từ 500 - 1.000 m2. Sau 4 năm tham gia SX, HTX có 3 xã viên đã thoát nghèo, còn những xã viên khác vươn lên khá giàu.

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

Nuôi hàu đá

Đầu tư khoảng 400 triệu đồng mua con giống và làm 140 bè nuôi hàu đá, đến kì thu hoạch, anh Xíu lãi ròng trên 300 triệu.


Kỹ thuật nuôi hàu đơn giản, tỷ lệ hao hụt rất thấp, rất phù hợp với vùng ven biển

Năm 2011, anh Ngô Văn Xíu ở khóm 6, phường 2, TP Bạc Liêu nhận khoán 1 đoạn kênh khoảng 1 km (đoạn gần cửa biển) tại ấp 17, xã Vĩnh Hậu A, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu để nuôi hàu đá.

Anh đầu tư nuôi 140 bè, mỗi bè 6 m2 (ngang 2 m, dài 3 m). Bè làm bằng tre, sàn bè đan lưới, trên mỗi bè treo 8 can lớn để cho bè nổi cách mặt đất nửa mét, thả 200 kg hàu giống/bè (cỡ 12 - 14 con/kg).

Tổng chi phí khoảng 400 triệu đồng, gồm con giống và vật tư chi phí làm bè. Sau 7 tháng nuôi bắt đầu đạt kích cỡ thu hoạch hàu thịt từ 100 - 200 kg/ngày, cỡ 3 - 4 con/kg, giá bình quân 13.000 đ/kg, sau khi trừ mọi chi phí anh còn lãi trên 300 triệu đồng.

Năm 2012, anh nâng số lượng lên 180 bè và cải tiến vật liệu làm bè nhằm giảm chi phí, sau 6 tháng nuôi, trọng lượng trung bình 4 con/kg, sản lượng trên 70 tấn, giá bán 15.000 đ/kg, lợi nhuận gần 400 triệu đồng.

Anh Xíu chia sẻ: Kỹ thuật nuôi hàu đơn giản, tỷ lệ hao hụt rất thấp, rất phù hợp với vùng ven biển, nuôi được quanh năm. Nuôi hàu không cần cho ăn, thức ăn chủ yếu là tảo, phiêu sinh vật phù du, ít công chăm sóc, dễ quản lý so với nuôi tôm, chỉ cần 4 công lao động là đủ, sau 1 tháng sắp lại 1 lần tránh chồng lên nhau để chúng dễ dàng hấp thụ thức ăn, dùng Moter rửa sạch rong rêu bám trên thân hàu.

Hiện tại anh tiếp tục thả nuôi lại được 2 tấn hàu giống trên 10 bè, do nguồn con giống khan hiếm mua tận Cà Mau với giá khá cao, 9.000 đ/kg. Để chủ động được nguồn giống và giảm chi phí trong SX anh tự tạo những giá thể đặt ngoài cửa biển, làm nơi cư trú cho hàu con để khai thác giống tự nhiên.

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

Chàng trai 8X Tuyên Quang thành tỷ phú nhờ nuôi ong

Mạnh dạn mở mô hình nuôi ong lấy mật, đến nay, anh Phong đã có 1.700 đàn ong khắp Nam - Bắc với thu nhập gần 2 tỷ đồng mỗi năm.

Khởi nghiệp từ những đồng vốn vay mượn, chàng trai Trần Xuân Phong (sinh năm 1984) ở xã An Khang, TP Tuyên Quang đã mạnh dạn mở mô hình nuôi ong lấy mật. Đến nay, anh Phong đã có 1.700 đàn ong khắp Nam - Bắc với thu nhập gần 2 tỷ đồng mỗi năm.
Đứng lên sau thất bại

Vượt quãng đường rừng hàng trăm km, tôi tới trang trại nuôi ong của gia đình anh Phong. Hàng nghìn thùng nuôi ong đặt khắp vườn, mùi thơm của mật ong phảng phất ngay từ ngoài cổng.

Trần Xuân Phong sinh ra và lớn lên ở xã An Khang, học xong THPT, Phong thi đại học nhưng không đỗ. Lớn lên gắn liền với những ong, sáp mật mà gia đình nuôi nên anh nghĩ ngay tới việc sẽ làm giàu từ việc mở mô hình nuôi ong lấy mật.

Anh Phong kiểm tra các tầng mật. 

“Lúc đầu tôi băn khoăn về việc chọn nghề. Bạn bè cùng trang lứa rời quê đi học tập, làm ăn hết, mỗi mình ở nhà bám lấy mấy đàn ong liệu có tương lai? Nhưng chính lúc đó bố tôi đã động viên và khuyên tôi cố gắng theo nghề nuôi ong làm giàu trên chính mảnh vườn gia đình”, Phong kể.

Năm 2002, Phong được bố giao lại 150 đàn ong mật giống nội để nuôi. Bước đầu vào nghề, anh luôn vấp phải khó khăn, thiếu đủ thứ, từ kinh nghiệm, vốn và đầu ra, nên chịu nhiều thất bại.

Lãnh đạo tỉnh Tuyên Quang trực tiếp tham quan và đánh giá cao mô hình nuôi ong của gia đình Phong. Thành phố Tuyên Quang đã đầu tư 6 tỷ đồng giúp anh Phong xây dựng nhà xưởng, dây chuyền vừa sản xuất vừa chế biến mật ong, tiến tới xây dựng thương hiệu mật ong rừng Tuyên Quang và xuất khẩu mật ong ra nước ngoài.
Phong chia sẻ: “Nuôi ong chỉ để lấy mật dùng thì khá dễ nhưng nuôi số lượng lớn để làm giàu rất khó, phải am hiểu thời tiết, các vùng địa lý nhiều nơi và thấu hiểu được bản chất của con ong. Sống với nó như bạn thì mới nuôi nó được. Muốn ong cho mật tốt phải đem ong đến những vùng có mùa hoa nở rộ. Lúc đầu, tôi đưa đàn ong đến những nơi có hoa để hút mật thì hoa đã tàn.

Khi trở về, ong bị đói, cắn nhau chết hàng đàn, mật thì không có. Những lúc đó nhiều người khuyên nên chuyển sang nghề khác chứ nuôi ong không làm giàu được, nhưng tôi nghĩ do mình chưa thật sự hiểu về ong, mỗi lần thất bại là một bài học kinh nghiệm để mình phát triển sự nghiệp sau này”.

Đầu năm 2005, anh Phong tiếp tục mạnh dạn đưa sổ đỏ đi thế chấp, vay ngân hàng để mua sắm vật tư, con giống, nâng số lượng đàn ong lên. Đầu năm 2006, thị trường tiêu thụ mật ong dần ổn định, bước đầu đem lại thu nhập kinh tế để Phong mạnh dạn mở rộng mô hình.

Vào Nam ra Bắc cùng ong
Để nâng cao năng suất và chất lượng mật cho ong, Phong không ngừng học tập và tìm cách lai giống chúng. Năm 2006 anh đã tìm ra cách lai tạo giữa giống ong vàng của miền Bắc với giống ong Ý của miền Nam, tạo thành giống ong lai, vừa cho lượng mật cao, vừa chống chọi được với cái lạnh của miền Bắc. Năm 2008, anh đã ký hợp đồng chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm với Cty Ong Đắk Lắk, sản phẩm ra đến đâu được tiêu thụ ngay đến đó, vừa lấy mật vừa nhân đàn, đến nay anh đã có 1.700 đàn ong.

Tuyên Quang là tỉnh có diện tích rừng, cây ăn quả, cây trồng vụ đông rất lớn, đầy tiềm năng để phát triển nghề nuôi ong mật (thức ăn chính là mật và phấn hoa tự nhiên). Nhưng để đàn ong có sản lượng mật quanh năm thì phải di chuyển đi đón những mùa hoa ở cả các tỉnh miền Nam.

“Cứ vào đầu tháng 12 hàng năm là tôi phải di chuyển đàn ong vào tỉnh Bình Phước đón hoa điều, tháng 2 lên tỉnh Gia Lai hưởng hoa cà phê, tháng 3 quay về tỉnh Bắc Giang đón vụ hoa vải, sau đó chuyển về đón hoa nhãn tại tỉnh Hưng Yên. Tháng 7 chuyển ong lên tỉnh Sơn La đón vụ hoa càng cua, tháng 10, 11 về tỉnh Hà Giang có hoa bạc hà”. Việc di chuyển ong phải làm trong đêm, vì thời gian này là đàn ong về tổ ngủ, không bị phân tán đàn và bị chết do thay đổi khí hậu đột ngột. Đàn ong của Phong cho 4 vụ mật/năm.

Đến nay, đàn ong của Phong đã thu trên 100 tấn mật/năm, trị giá trên 3 tỷ đồng, trừ đầu tư chi phí anh còn thu lãi gần 2 tỷ đồng, góp phần tạo việc làm thường xuyên cho 10 lao động là đoàn viên thanh niên trên địa bàn, với mức thu nhập 4 - 5 triệu đồng/người/tháng.

Xuất khẩu
Để tạo điều kiện cho những hộ nuôi ong trong vùng trao đổi kinh nghiệm, giúp nhau tiêu thụ sản phẩm, tháng 5/2013, anh Phong đứng ra thành lập HTX nuôi ong Phong Thổ gồm 25 xã viên là những hộ nuôi ong trên địa bàn xã, trong đó có 70% là đoàn viên thanh niên, nâng tổng số đàn ong của HTX lên trên 4.000 đàn.

Khát vọng của Phong không chỉ là mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước mà anh còn muốn mang sản phẩm mật ong của mình xuất khẩu sang cả những thị trường khó tính như Hoa Kỳ.

Anh chia sẻ: “Sản lượng mật ong của HTX thì không ngừng tăng nhưng ngoài bắc chưa có nhà máy chế biến nên phải mang sản phẩm thô vào Tây Nguyên để chế biến để xuất khẩu ra nước ngoài.Tốn chi phí xe cộ, lại không mang được thương hiệu mật ong của HTX mình. Khi xây dựng thành công nhà máy chế biến mật ong ở đây sẽ giảm được nhiều chi phí, không những thuận lợi cho phát triển mô hình nuôi ong trong tỉnh mà cả các tỉnh miền núi phía bắc nữa”.

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014

Nuôi vịt thoát nghèo

Từ nghèo khó vươn lên thành người làm ăn giỏi, giúp những người khác để có cuộc sống ổn định hơn là câu chuyện có thực của vợ chồng anh Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1977 ở khu 2, xã Phú Lộc, huyện Phù Ninh, Phú Thọ.

Đến tuổi trưởng thành, cũng như bao thanh niên vùng nông thôn khác, Thành kết hôn và chăm chỉ cùng vợ làm ăn. Hai đứa con lần lượt ra đời, cộng thêm phải nuôi mẹ già, gia đình 5 miệng ăn của Thành quanh năm nghèo khó. Ngoài 2,5 sào ruộng khoán, Thành cùng vợ đi trông coi vườn tược cho một ông chủ ở Hà Nội. Tuy nhiên, thu nhập từ hai khoản này không đủ trang trải cho cuộc sống gia đình. Hàng đêm, nằm nghĩ gia cảnh của mình, hai vợ chồng không cầm được nước mắt. Phần vì lo nghĩ cho sức khoẻ mẹ già ở quê, phần lo hai đứa con không được chăm sóc đầy đủ nên vợ chồng Thành quyết học một cái nghề để về quê làm ăn.

Sau một thời gian tham khảo thị trường, Thành quyết định học hỏi kinh nghiệm nuôi vịt đẻ trứng. Với số vốn tích luỹ được lúc làm thuê tại Hà Nội, Thành đầu tư mua 400 con vịt đẻ và đào 600 m2 mặt nước cho vịt bơi, không có tiền làm chuồng kiên cố, Thành quây tạm 702 đất vườn làm chuồng cho vịt. Lúc đầu do chưa có kinh nghiệm nên Thành rất lo lắng, vì nghề chăn nuôi thường hay gặp rủi ro do bệnh dịch.

Để có kỹ thuật, Thành đầu tư mua sách báo học hỏi kỹ thuật chăn nuôi vịt đẻ , đồng thời anh cũng đi tham khảo kinh nghiệm nhiều chủ trang trại ở các nơi khác. Sau hai năm vừa làm vừa tích luỹ kinh nghiệm, sự cần cù chịu khó của anh chị đã được đền đáp xứng đáng. Ngoài tiền vốn ban đầu, hiện nay mỗi ngày anh chị lãi 200 ngàn đồng từ tiền bán trứng. Tính bình quân không gặp rủi ro, mỗi năm anh chị thu về 60 triệu đồng. Ngoài nuôi vịt đẻ, anh còn mua thêm 2 con bò sinh sản, một năm anh thu thêm 10 triệu đồng tiền bán bò.

Từ số tiền lãi có được từ chăn nuôi, anh vay vốn thêm từ Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách để mua ao thả cá và mua thêm 300 con vịt giống. Hiện nay, số vịt thường xuyên của gia đình anh từ 500-600 con. Để tạo bóng mát cho vịt, anh trồng cỏ ngọt xung quanh bờ ao cho vịt và lấy nguyên liệu cho bò.

Ngoài việc làm kinh tế thoát nghèo, anh vẫn tích cực tham gia các lớp tập huấn do Hội ND tổ chức, đọc thêm sách báo, xem ti vi về kỹ thuật chăn nuôi. Những kiến thức và kinh nghiệm anh có được đều được anh áp dụng có hiệu quả vào quá trình phát triển sản xuất và giúp đỡ cho các họ nghèo xung quanh.

Có của ăn, của để, anh Thành vẫn nhớ tới thuở nghèo khó ngày xưa và rất tích cực tham gia vào công tác từ thiện tại địa phương. Anh thường xuyên đóng góp xây dựng trường học, làm đường bê tông thôn, xóm, ủng hộ người nghèo, giúp đỡ những người già không nơi nương tựa…

Gương vượt khó làm giàu của anh Thành được nhiều người dân quanh vùng cảm phục và học tập. Anh cũng vinh dự được là đại biểu về dự Hội nghị sơ kết phong trào thi đua Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi giai đoạn 2007-2009 do Hội ND tỉnh Phú Thọ tổ chức vào đầu tháng 11 vừa qua.

Thứ Tư, 9 tháng 4, 2014

Làm giàu nhờ gió bầu

Sau khi từ Tuy Hòa lên lập nghiệp tại vùng đất cao nguyên Vân Hòa (Sơn Hòa – Phú Yên) để canh tác nông sản sau mấy năm không đạt kết quả ông quyết định chuyển đổi một phần diện tích đất gần nhà đầu tư vào trồng 1.100 cây gió bầu. Sau 5 năm, vườn ông được thương lái ở Vạn Ninh – Khánh Hòa trả với giá 2 – 4 triệu đồng/cây.

Cây gió bầu là cây công nghiệp thu lợi kinh tế rất cao. “Khi trồng gió bầu thì nghĩ ngay đến việc mua ô tô thôi!”. Đây là khẳng định của ông Lê Văn Phương đã có nhiều năm kinh nghiệm trồng cây gió bầu.

Trồng gió bầu (trầm hương) không còn xa lạ với người dân các tỉnh miền Trung. Nhưng việc khai thác cây như thế nào để có lãi cao nhất là chuyện không phải ai cũng làm được.

Tại các huyện miền núi tỉnh Quảng Nam như Trà My, Tiên Phước, Quế Sơn, Nông Sơn, Phước Sơn... cây gió bầu đang được nhiều người trồng. Tuy vậy, kỹ thuật tạo trầm trên cây gió vẫn là bí quyết mà không phải ai cũng dễ dàng nắm được. Sau đây là kỹ thuật trồng cây gió bầu:

Kỹ thuật sản xuất cây con: Chọn hạt giống có chất lượng tốt, hạt đen bóng, tỷ lệ nảy mầm cao(>80%). Gieo hạt trên luống có thành phần cơ giới nhẹ như cát pha có pH5-6, giàn che tốt, chủ động điều chỉnh ánh sáng. Sau 30-35 ngày, cây mạ sẽ cất vào các bầu đất (hỗn hợp xơ dừa, tro trấu..)kích thước 12x16 cm. Bầu cây đặt trong vườn ươm có dàn che tránh bớt nắng và hạt mưa trực tiếp lên cây con sau khi cấy.

Trong thời gian 30-45 ngày đầu sau khi cấy thường xuyên tưới nước giữ ẩm cho cây, ngày tưới 2 lần, lượng nước tưới 2-4l/m2. Sau 45 ngày đến khi cây xuất vườn lượng nước tưới giảm dần 3-5 ngày/ lần. Cây trong vườn ươm cần chú trọng đảo bầu cây khi cây ra rễ khỏi bầu thường 1lần /tháng. Giai đoạn này bón phân vào lúc chiều mát, bón xong phải tưới nước ngay để rửa sạch cây, lá. Phân bón DAP với nồng độ 1-1,5% với 2lít/m2, chỉ tưới cây từ 2 tháng tuổi trở lên, 15 ngày/ lần.

Phòng trừ sâu bệnh : bệnh thường là lở cổ rễ, thối thân, phấn trắng, cháy lá.., các thuốc sử dụng trị bệnh là Brocdeau, Basudin hoặc Baylidin theo hướng dẫn ở bao bì. Các loại sâu ăn lá, sâu đục thân có thể dùng thuốc nội hấp hoặc thuốc tiếp xúc để phòng trừ. Cây xuất vườn xanh tốt, thân thẳng, không cụt ngọn, cây cao >50cm, đường kính cổ rễ >0,4cm và bầu cây không bị mục nát đứt rễ.

Kỹ thuật trồng cây: đất trồng cây nên chủ động nước tưới, tránh mưa lụt úng (>1giờ).

-Đào hố trồng: Kích thước: 40x40x30cm. Khi đào hố phải để lớp đất mặt sang 1 bên. Đào hố trước khi trồng 1 tháng sau đó lấp hố theo quy định lớp đất mặt trộn phân lắp xuống trước. Lượng phân NPK từ 0,3-0,5 kg/ hố, nên trộn với phân hữu cơ 1kg/ hố.

-Mật độ cây trồng: tuỳ loại đất có thể chọn các loại mật độ sau: 625 cây/ha: với cự ly 4x4 m; 800 cây/ha: 2,5x5 m; 1160 cây/ha: 3x3 m. Nếu trồng xen trong vườn cà phê, điều, nhãn, tiêu… mật độ từ 250 -500 cây.

- Kỹ thuật trồng: cây đủ tiêu chuẩn trồng, tiến hành trồng sau những trận mưa đầu mùa mưa. Trồng vào những ngày mưa nhỏ, thời tiết mát dịu, ẩm là tốt. Bố trí cây trồng hình nanh sấu, chống xói mòn. Bóc vỏ bầu nylon, đặt bầu sâu hơn lớp đất tự nhiên 1-2cm. Đặt cây ngay ngắn giữa hố, lấp đất và nén chặt, vun gốc cao hơn mặt đất thường 2-3cm là vừa.

Sau khi trồng xem xét dẫy cỏ quanh gốc, vun xới nhẹ nhàng chung quanh gốc cây đường kính 1-1,2m. Bón phân 2 lần vào năm 1 và năm 2 hai lần/năm với lượng phân NPK 100gr/cây. Các năm sau chỉ làm cỏ, xới đất quanh cây, tỉa bớt cành tạo dáng cho cây vươn cao, không cần bón phân vô cơ, nên tạo độ ẩm xung quanh gốc bằng phân hữu cơ.

Thứ Ba, 8 tháng 4, 2014

Trồng dứa cảnh

Nhiều địa phương của vùng ngập mặn huyện Tân Phước (Tiền Giang) đang triển khai mô hình trồng dứa phụng, một loại cây cảnh rất được thị trường ưa chuộng. Hiệu quả kinh tế từ loại cây này đã mở ra một hướng thoát nghèo mới cho người nông dân.

Dứa phụng (hay còn gọi là phụng cảnh) có hình như chim phượng hoàng, phân thành nhiều tầng, nhánh đủ màu sắc, được dùng làm cây cảnh hoặc chưng trong các mâm ngũ quả.

Nở hoa trên đất phèn

Tân Phước vốn là vùng đất chiêm trũng bị nhiễm phèn nặng của Đồng Tháp Mười. Thiên nhiên khắc nghiệt đã khiến cuộc sống người dân nơi đây thêm nỗi nhọc nhằn, vất vả. Người dân phải bôn ba khắp chốn để tìm hướng đi phát triển kinh tế, nhưng cái nghèo, cái khó vẫn đeo đẳng mảnh đất chua, phèn bao đời nay. Những năm gần đây, ở Tân Phước xuất hiện nghề trồng dứa phụng, loại cây cảnh có giá trị kinh tế cao. Người đầu tiên đưa giống dứa “lạ” này về trồng là ông Hà Văn Bảy (SN 1940, ấp Mỹ Lộc, xã Thạnh Mỹ, Tân Phước). “Vùng này quanh năm ngập nước chua mặn, chỉ có một vài cây trồng có sức chống chịu là sống được. Tình cờ tôi được một người thân ở Hậu Giang cho giống dứa cảnh, có hình thù đẹp, màu sắc lạ mắt nên đưa về trồng thử. Cây phát triển tốt trong điều kiện đất phèn chua mặn”, ông Bảy cho biết. Giống dứa phụng trồng rất công phu, đòi hỏi chế độ chăm sóc tỉ mỉ, đúng kỹ thuật mới cho trái đẹp, nhiều tầng nhánh có màu sắc lạ.

Ban đầu ông Bảy chỉ có ý định trồng chơi, bởi không kiếm được đầu ra cho giống cây cảnh lạ này. Nhưng chỉ qua hai mùa vụ, thương lái từ TP. Mỹ Tho đã xuống tận vườn nhà ông để đặt hàng. “Họ cần dứa phụng với số lượng lớn và trả giá rất cao cho những cây hoa đẹp, có hình dáng độc đáo. Dứa phụng được chia thành ba loại với ba mức giá khác nhau tùy vào số lượng nhánh con ở các tầng. Dứa loại I có giá trên 150.000 đồng/trái, loại II, loại III thì thấp hơn từ 50.000 – 100.000 đồng/trái”, ông Bảy nói. Với hơn bốn công đất canh tác dứa phụng, mỗi năm ông Bảy thu về gần trăm triệu đồng.

Từ một vài hộ trồng dứa phụng, đến nay toàn xã Thạnh Mỹ có gần sáu mươi hộ tham gia, trong đó tập trung chủ yếu ở ấp Mỹ Lộc. Dẫn chúng tôi đến thăm vườn dứa phụng của anh Nguyễn Hữu Soi (ấp Mỹ Lộc), một cán bộ nông nghiệp xã cho biết, trước đây vốn là vùng đất hoang hóa, nhiễm phèn nặng, bị bỏ hoang lâu ngày. Năm 2004, anh Soi cùng gia đình đến đây xin khai hoang và trồng dứa phụng. Qua gần sáu năm vật lộn, cải tạo đất, gia đình anh đã gây dựng nên một cơ ngơi khá giả giữa vùng sình lầy, ngập mặn. Anh Soi tâm sự: “Gia đình tôi có gần hai công đất trồng phụng cảnh. Mỗi năm trừ chi phí đầu tư chăm sóc, phân bón, tôi cũng thu về hơn 40 triệu đồng/năm. Sắp tới tôi dự định sẽ mở rộng diện tích canh tác và học hỏi thêm các khâu kỹ thuật lai, ghép tạo ra các loại dứa phụng có hình dáng độc. Phần diện tích trồng dứa thường sẽ dần được thu hẹp”.

Thấy được hiệu quả kinh tế của phụng cảnh, người dân bắt đầu chuyển đổi sang trồng phụng cảnh. Hiện nhiều diện tích ngập mặn, nhiễm phèn ở Thạnh Mỹ và các xã lân cận đang được cải tạo thành những vườn phụng cảnh đầy màu sắc.

Thương hiệu dứa phụng Tân Phước
Theo phòng NN & PTNN huyện Tân Phước, trong dịp tết Tân Mão vừa qua, cả huyện có hơn 1.200 chậu dứa phụng đạt chất lượng cao được thương lái đến đặt hàng, thu mua. Hiện phòng NN huyện đang phối hợp với Sở KHCN nghiên cứu, nhân rộng giống dứa phụng. Ngoài hỗ trợ về mặt kỹ thuật và con giống, phòng NN còn cung cấp phân bón và tập huấn nông dân các biện pháp chăm sóc, tạo nhánh, tạo cành…

Ông Nguyễn Văn Thọ, Phó Chủ tịch UBND xã Thạnh Mỹ cho biết: “Dứa phụng là loại cây trồng mới, lạ nhưng cho hiệu quả kinh tế cao và đang trở thành cây trồng chủ lực của xã. Phụng cảnh đã giúp nhiều hộ dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu trên mảnh đất quê hương. Chúng tôi đang có dự định xây dựng một vùng chuyên canh về phụng cảnh”. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp từ TP.HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu… xuống liên hệ với địa phương để thành lập các vườn trồng phụng cảnh chất lượng cao. Nhưng đây là một loại giống hiếm, có nguồn gốc ngoại nhập nên kỹ thuật trồng và chăm sóc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian. Xã đang phối hợp với phòng nông nghiệp huyện nghiên cứu lai tạo và chuyển giao kỹ thuật cho nông dân, ông Thọ nói thêm.

Trồng phụng cảnh đã mở ra một hướng phát triển mới cho người dân ở vùng phèn, mặn Tân Phước. Nhưng để cây dứa “độc” này có chỗ đứng trên thị trường, cần có một thương hiệu. Người dân và chính quyền Tân Phước đang nỗ lực để xây dựng thương hiệu cho loại dứa lạ này, nó sẽ là một cú hích về phát triển kinh tế cho toàn huyện.

Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

Nuôi ong rừng cho thu nhập cao

Trong khi đại đa số các hộ gia đình ở Ấm Hạ, Hạ Hoà, Phú Thọ phát triển kinh tế theo mô hình vườn ao chuồng và kinh doanh sản xuất tiểu thủ công nghiệp thì gia đình ông Vũ Phi Phụng ở khu 4 có một cách nghĩ và cách làm táo bạo và mới mẻ trong quá trình phát triển kinh tế của gia đình ông đó là nghề nuôi ong rừng đã được gia đình ông duy trì hơn 10 năm nay.

Dựa vào địa hình đồi núi trung du, khí hậu ổn định, sau nhiều trăn trở về lựa chọn cách làm kinh tế, ông Phụng đã quyết tâm đi theo nghề nuôi ong rừng ngay tại vườn nhà dưới chân núi Buộm. Đây là một nghề khá mạo hiểm mặc dù vốn đầu tư ban đầu không lớn mà chủ yếu là nhờ vào sự may rủi của thiên nhiên, thời tiết nhưng ông Phụng vẫn quyết tâm theo đuổi. Là một loại vật nuôi có nguồn gốc từ núi rừng và là ấu trùng nên việc nhân giống ban đầu hết sức tỉ mỉ và khó khăn.

Ngay từ những ngày đầu, ông Phụng phải lặn lội lên rừng sâu để tìm bắt những tổ ong đang chuẩn bị xây tổ mang về vườn nhà để nhân giống mùa sau. Khi đã có một vài tổ, đến mùa thu hoạch, vào mùa đông, ông có cách duy trì giống và nhân giống rất đặc biệt. Dùng rơm, rác phủ kín tổ ong tạo nơi trú ngụ mùa đông cho ong trưởng thành và giữ chân ong tại vườn nhà. Đến mùa sinh sản và xây tổ, mỗi con trưởng thành sẽ tự tách đàn và tự xây thành tổ riêng ngay trong vườn nhà và xung quanh ruộng lúa, ven rừng. Từ đó, ông Phụng có thể có được hàng trăm tổ ong.

Cùng với việc tự nhân giống, gia đình ông Phụng còn cất công lên Yên Bái, Lào Cai để mua những tổ ong mới xây về nuôi tại vườn của gia đình để tăng số lượng đàn ong. Trong quá trình nuôi và nhân giống, ông Phụng cũng gặp không ít những khó khăn về con giống. Nếu thời tiết không thuận lợi cộng với việc bị nhiễm độc thì ấu trùng có thể bị hỏng hay ong chúa kém thì ong thợ có thể bỏ tổ bay đi nơi khác.

Với diện tích vườn khoanh nuôi khoảng hơn 3 sào cộng với đồi cây và chia làm 3 khu nuôi, ông Phụng đã nuôi hai giống ong chính mang lại hiệu quả kinh tế cao là ong vò vẽ và ong bầu đất. Đây là hai loại ong được thị trường tiêu thụ ưa thích. Trong đó loại ong bầu đất có giá trị kinh tế cao hơn nhờ giá trị dinh dưỡng của nó nhưng khó nuôi hơn. Kiên trì và bền bỉ, đến nay, vườn ong nuôi của ông Phụng đã lên tới hơn 300 tổ cộng với hơn 20 tổ ong bầu đất đang đến thời gian cho thu hoạch.

Thời gian nuôi loại ong rừng này không dài chỉ khoảng 3 tháng là cho thu hoạch từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm trong điều kiện thời tiết ấm áp. Vào vụ thu hoạch lúa tháng 9, ông Phụng cắt các tổ ong đã cho thu hoạch và cho vào lưới sắt mang bán tại thị trường trong tỉnh rồi Hà Nội, Thanh Hoá, Hải Dương...Mỗi tổ ong vò vẽ bình thường cũng bán được từ 70 đến 100.000 đồng. Đặc biệt, giống ong bầu đất có thể cho giá từ năm trăm đến một triệu đồng. Loại nhộng ong dùng làm thực phẩm với giá 100.000 đồng/ 1 kg. Kiên trì bền bỉ với nghề nuôi ong rừng tương đối mạo hiểm này, mỗi năm vườn ong rừng đã mang lại cho gia đình ông Phụng thu nhập từ 30 đến 35 triệu đồng, giúp cho gia đình ông từng bước thoát nghèo. Đến nay, nhờ có nghề nuôi ong rừng, gia đình ông đã ổn định cuộc sống và xây được căn nhà mái bằng khang trang, góp phần ổn định kinh tế xã hội của địa phương.

Nghề nuôi ong rừng của gia đình ông Vũ Phi Phụng đã theo đuổi hơn 10 năm là điển hình cho sự dám nghĩ đám làm của người nông dân ở Hạ Hoà biết dựa vào điều kiện thực tế và thế mạnh của địa phương để vươn lên phát triển kinh tế và từng bước thoát nghèo.

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014

Mày mò tự học, trở thành tỷ phú mộc nhĩ

Tự đi thăm các mô hình để học nghề, tự gây dựng trang trại, tới giờ, anh Trần Viết Quý ở thôn Vĩnh Phệ, xã Chu Minh (Ba Vì, Hà Nội) đã có cơ sở sản xuất mộc nhĩ lớn với doanh thu hàng tỷ đồng/năm.

Anh Quý tâm sự, trước khi bắt tay vào nghề trồng mộc nhĩ, gia đình anh đã làm nhiều nghề như: Buôn bán gạo, trồng cây con giống… nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Qua đọc sách báo, xem truyền hình, anh Quý nhận thấy mô hình trồng mộc nhĩ cho hiệu quả kinh tế cao, vốn đầu tư ít lại rất phù hợp để phát triển tại địa phương.

Vì vậy, anh quyết định học hỏi bằng cách đi nhiều nơi và tham quan nhiều mô hình trong Nam ngoài Bắc. Khi đã thạo về kỹ thuật và thị trường, anh bắt tay vào xây dựng trang trại. Bước đầu, anh xây dựng mô hình nhỏ với 1 lán trại rộng 360m2. Mới làm nghề, gia đình anh gặp không ít khó khăn với “giống rau sạch” này. Anh Quý cho biết: “Người trồng mộc nhĩ thành công hay thất bại phụ thuộc đến 80% vào thời tiết và phải nắm vững kỹ thuật. Nhiều lần mùn cưa đóng bịch rồi nhưng phải bỏ đi vì không đạt yêu cầu".

Chu kỳ một lứa nấm từ khi tạo giống đến khi thu hoạch mất khoảng 3 tháng, nếu làm tốt, có thể cho thu hoạch liên tục từ 2 -3 tháng.

Hiểu rằng muốn sản xuất tốt thì phải học, anh Quý lại tiếp tục tìm tới các trang trại nấm học hỏi kinh nghiệm, vừa học vừa làm, tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, đầu tư mở rộng nhà xưởng, làm giàn, xây lò hấp… nhờ đó mà sản xuất ổn định trong khi chi phí đầu vào giảm đáng kể. Đến nay, gia đình anh Quý đã có một trang trại trồng mộc nhĩ gồm 4 lán với tổng diện tích rộng hơn 4.000m2.

Hiện nay, 1kg mộc nhĩ khô có giá bán từ 90 – 100 nghìn đồng, mỗi vụ gia đình anh thu hoạch từ 12 – 15 tấn mộc nhĩ, thu về hơn 1 tỷ đồng. Mộc nhĩ sản xuất đến đâu được khách hàng mua hết đến đó. Không những làm giàu cho gia đình mình mà anh Quý còn tạo việc làm thường xuyên cho 15 - 20 lao động địa phương và 35 - 40 lao động thời vụ với mức lương từ 2 - 2,5 triệu đồng/tháng. Trong thời gian tới, anh Quý dự định tiếp tục mở rộng mô hình thêm 3 lán trại, tạo thêm công ăn việc làm cho nhiều người dân quanh vùng.

Xã Chu Minh là xã thuần nông của huyện Ba Vì, đời sống của đa số người dân còn gặp nhiều khó khăn. Việc đưa các mô hình sản xuất mới đến với người dân là hết sức cần thiết, trong đó việc hỗ trợ nguồn vốn rất quan trọng. Bà Nguyễn Thị Quý - Chủ tịch Hội ND xã Chu Minh mong muốn: “Thực tế của anh Quý cho thấy, nếu được học nghề nông nghiệp bài bản, bước đầu hỗ trợ vốn vay thì người dân có thể chủ động tổ chức sản xuất, tạo việc làm trên chính quê hương mình”.

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014

Một nông dân mạnh dạn đầu tư nuôi bò sữa cho hiệu quả kinh tế cao

Mạnh dạn chuyển đổi tìm hướng đi mới trong sản xuất chăn nuôi đem lại hiệu quả kinh tế đó là quyết tâm của anh Nguyễn Văn Thạnh ở ấp Thanh Vân xã Định Thủy huyện Mỏ Cày Nam.

Sau nhiều năm chăn nuôi bò thịt hiệu quả kinh tế đem lại không khá. Đến năm 2009 bằng sự nhạy bén, anh Thạnh đã mạnh dạn đi đầu trong việc chuyển đổi sang mô hình nuôi Bò sữa với quy mô 4 con. Bước đầu thành công của mô hình này đã đem lại hiệu quả kinh tế cho gia đình rất cao.

Nuôi bò sữa đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu khá lớn, bởi giá bò giống rất đắt. Ở bước đi ban đầu anh Thạnh đã vay vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội 20 triệu đồng và với nguồn vốn tích lũy anh Thạnh đã đến trại bò sữa Thủ Đức Tp HCM mua 2 con bò giống với giá 25 triệu đồng/con. Bước đầu anh gặp không ít khó khăn trong việc chăm sóc giống bò mới mẻ này nhưng điều đó đã không làm anh lùi bước. Để có kinh nghiệm trong chăn nuôi bò sữa, anh thường xuyên tìm hiểu tham quan nhiều mô hình từ các hộ chăn nuôi khác. Tích lũy kinh nghiệm chăn nuôi đã vững vàng, anh quyết định chuyển sang đầu tư nuôi bò sữa. Khi bò giống phát triển được 4 tháng, anh Thạnh tiếp tục mua thêm 2 con bò sữa giá 35 triệu đồng/con về mở rộng chuồng trại chăn nuôi.

Theo kinh nghiệm của anh Thạnh, nuôi bò sữa phải tuân thủ nghiêm ngặt về chế độ dinh dưỡng và thời gian cho ăn hàng ngày. Bò sữa nuôi trong vòng 2 năm bắt đầu khai thác sữa. Để đảm bảo chi phí đầu vào và đảm bảo mức lãi, anh Thạnh đã linh hoạt phối trộn nguồn thức ăn hỗn hợp gồm: xác bia, bã đậu và thức ăn chăn nuôi. Mỗi ngày trung bình 1 con bò sữa anh Thạnh cung cấp 12kg hỗn hợp thực phẩm, ngoài ra còn kết hợp cho bò ăn cỏ tươi bình quân 20kg cỏ tươi mỗi con/ngày.

Nói về hiệu quả kinh tế từ mô hình nuôi bò sữa, anh Thạnh rất phấn khởi: chăn nuôi bò sữa mang lại thu nhập hàng ngày, hiện nay giá sữa tăng cao và không còn bấp bênh như những năm trước. Với mức giá này bò sữa đang mang lại thu nhập ổn định hơn hẳn so với các ngành chăn nuôi khác trước đây anh Thạnh đã đầu tư. Hiện tại, anh Thạnh đã phát triển được 4 con bò sữa trong đó có 3 con đang cho sữa. Mỗi ngày, bình quân 1 con bò sữa cho khoảng 20 kg sữa tươi với giá hiện tại 12.000 đồng/kg. Bình quân mỗi ngày anh Thạnh thu lãi trên 600 ngàn đồng sau khi trừ đi chi phí thức ăn.

So với nuôi bò thịt không phải tốn nhiều chi phí mua con giống và tốn tiền mua thức ăn hàng ngày, chăm sóc đơn giản nhưng từ khi chuyển sang nuôi giống bò sữa, ban đầu anh Thạnh khá lúng túng về kỹ thuật chăm sóc. Qua tham quan học hỏi nhiều mô hình ở các địa phương khác anh Thạnh đã áp dụng thành công mô hình này. Cùng giống bò nhưng không giống như bò thịt, bò sữa thích nghi tốt với nhiệt độ thoáng mát vì thế chuồng bò phải làm nơi khô ráo, sạch sẽ, chuồng được chia ra từng ngăn để nhốt riêng từng con nhằm thuận tiện cho việc vắt sữa và đảm bảo vệ sinh chuồng trại trong chăn nuôi.

Anh Thạnh chia sẻ: “ Nuôi bò sữa, mỗi ngày vắt sữa bò 2 lần lúc sáng và chiều, chi phí mỗi ngày 4 con bò sữa tôi đầu tư khoảng 200.000 đồng mua thức ăn cho bò. Trước khi vắt sữa tôi cho bò ăn hỗn hợp thực phẩm và cho bò ăn cỏ sau khi vắt sữa xong. Vì trong quá trình vắt sữa nếu cho bò ăn cỏ, bò sẽ nhai lại nên rất khó vắt sữa và sữa không được đảm bảo sản lượng khi vắt”. Nuôi bò sữa ngoài việc cho thu nhập từ lượng sữa cung cấp hàng ngày, anh Thạnh còn nhân giống bò sữa tăng thêm nguồn thu nhập. Từ năm 2009 đến nay, anh Thạnh đã nhân giống và bán được 4 con bò sữa con trị giá gần 100 triệu đồng.

Để chăn nuôi bò sữa thành công điều quan trọng là con giống tốt, chuồng trại phù hợp, nguồn thức ăn đủ dinh dưỡng, đó cũng chính là lý do giúp anh Thạnh thành công với mô hình chăn nuôi bò sữa. Đây là mô hình mở ra hướng đi mới đem lại hiệu quả kinh tế cao.